Tu hành đúng chánh Phật pháp

http://tuhanhdungchanhphatphap.net


TÓM LƯỢC PHÁP TU GIAI ĐOẠN 1

Đây là tài liệu ghi chép ngắn gọn, được đúc kết từ những bài giảng của Trưởng Lão Thích Thông Lạc, nhằm chia sẻ, hỗ trợ những người mới tìm đến đạo Phật biết được khởi đầu nên trang bị những hiểu biết gì, tu tập những pháp nào, pháp tu nào là trọng tâm.
  
 

TÓM LƯỢC PHÁP TU GIAI ĐOẠN 1

 

LỜI MỞ ĐẦU

 
Kính chào quý bạn,
 
Nhằm giúp cho những người đang tìm hiểu chánh pháp có thể nhanh chóng nắm được đường hướng, lộ trình rõ ràng, từ đó việc tìm hiểu chánh pháp trở nên dễ dàng hơn, chúng tôi đã cho ra đời bản tóm lược pháp tu giai đoạn 1. Bản tóm lược này là những ghi chép ngắn gọn, được đúc kết từ những bài giảng của Trưởng Lão Thích Thông Lạc, giúp cho người mới tìm đến đạo Phật biết được khởi đầu nên trang bị những hiểu biết gì, tu tập những pháp nào, pháp nào là trọng tâm, pháp nào cần tu trước, pháp nào cần tu sau. Xin nhấn mạnh, đây chỉ là tài liệu tham khảo chúng tôi giúp quý bạn nhìn thấy đường lối tu tập, không phải tài liệu hướng dẫn tu hành. Quý bạn phải tự mình đọc, nghe, nghiên cứu thật kỹ những bài giảng của Trưởng Lão để làm rõ từng nội dung, từng pháp hành trước khi đi vào thực hành tu tập.
 
Để hỗ trợ quý bạn, chúng tôi tạo ra 2 phần nội dung. Phần 1 là lộ trình tu tập tóm gọn. Phần 2 là kho tài liệu video của Trưởng Lão nhằm làm rõ cho Phần 1. Những video này sẽ được sắp xếp theo từng nội dung, chủ đề rõ ràng để người xem tiện theo dõi.
 
Chúng tôi tập trung làm sáng tỏ pháp tu giai đoạn 1 là bởi mọi người đều cần bắt đầu từ giai đoạn này. Và đây cũng là giai đoạn quan trọng nhất, cần dành nhiều thời gian nhất để thực hành tu tập. Nếu quý bạn làm tốt giai đoạn này thì coi như quý bạn đã hoàn thành tốt mục tiêu tu tập theo đạo Phật.
 
Tất cả nội dung của cả 2 phần được chia sẻ tại trang web Tu Hành Đúng Chánh Phật Pháp:
 
tuhanhdungchanhphatphap.net
 
cùng với kênh Youtube Tu Hành Đúng Chánh Phật Pháp:

https://www.youtube.com/channel/UCL22_HGLbfDyAgVzJJT4LwA
 
và được chia sẻ thêm tại nhóm facebook Chánh Phật Pháp:
 
https://www.facebook.com/groups/tuhanhdungchanhphatphap.net/
 
Phật dạy trong thế gian có những điều khó được, đó là được thân người có trí tuệ hiểu biết, được gặp chánh Phật pháp, được bậc thầy giải thoát chỉ dạy rõ ràng pháp giải thoát. Chúng ta là những người may mắn, nhiều phước báu nên đều có được những điều này, được Trưởng Lão Thích Thông Lạc giảng giải rõ ràng pháp Phật dạy. Nếu chúng ta không tập trung dành thời gian tìm hiểu, nghiên cứu những lời dạy của Trưởng Lão, một bậc A la hán đích thực, thì liệu có phải uổng phí?
 
Thầy Thông Lạc dặn rằng Thầy đã giảng đủ lắm rồi, không còn thiếu một bài pháp nào nữa cả, mọi người cứ theo những bài giảng của Thầy rồi tự tu tập theo, tất cả đã được giảng rất cặn kẽ, dễ hiểu, tu hành không sai đâu mà các con sợ, nếu có sai thì Thầy cũng đã dạy các con phá cái sai.
 
Các bạn có tin lời Thầy không? Chúng tôi thì rất tin tưởng, sau nhiều năm tìm hiểu kinh sách, băng giảng Thầy để lại. Quả đúng Thầy Thông Lạc đã dạy đầy đủ mọi thứ cần thiết để mọi người có thể hiểu và tu hành theo chánh pháp. Có chăng chỉ là do khối lượng tài liệu quá lớn khiến người mới tìm hiểu bị ngợp, không tiếp thu được hết. Bởi vì sau hơn 25 thế kỷ đạo Phật bị pha trộn giáo lý của ngoại đạo, thành ra Thầy Thông Lạc phải viết nhiều sách, giảng nhiều bài để chỉ ra những cái sai lầm, trà trộn đó. Phá được cái sai, không lầm chấp vào cái sai thì người ta mới có thể tu hành đúng chánh pháp.
 
Để giúp các bạn không bị khối lượng quá lớn tài liệu làm nản lòng, không lần mò ra được cách tu tập, chúng tôi cho ra đời bản tóm lược pháp tu này như một bảng chỉ dẫn. Các bạn sẽ nhanh chóng nắm bắt được đường lối tu tập và thấy được tâm từ bi vô hạn của người Thầy vĩ đại. Ngài đã giảng giải chánh pháp quá đầy đủ, chi tiết, làm cho chánh pháp thật dễ hiểu và dễ tu tập. Phần còn lại là ở chúng ta, ai không tu thì thôi, ai chịu tu sẽ thấy kết quả giải thoát ngay liền, được an vui, hạnh phúc ngay trong hiện tại, tu đến đâu hưởng thành quả đến đó.
 
Bây giờ mời các bạn bắt đầu tìm hiểu bản tóm lược pháp tu giai đoạn 1. Chúc các bạn tìm thấy được nhiều điều lợi ích từ nơi này.
 
Kính ghi
Nhóm đệ tử chánh pháp
 
 
*******************************************************************
 
 

PHẦN 1

PHÁP TU GIAI ĐOẠN 1 – XẢ TÂM, LY DỤC LY ÁC PHÁP

 
Cuộc sống của con người ở thế gian có quá nhiều nỗi khổ. Khổ vì phải vất vả lo liệu cho cuộc sống, phải va chạm xã giao, gặp bao nhiêu chuyện trái ý nghịch lòng. Khổ vì cơ thể có những ốm yếu, bệnh tật, đau nhức, khó chịu, ngứa ngáy, nóng lạnh. Khổ vì sức khỏe, trí tuệ bị suy yếu dần theo thời gian, rồi đến lúc các việc cơ bản như đi đứng, ăn uống, nói chuyện, hít thở cũng trở nên khó khăn. Khổ vì sự sợ hãi khủng khiếp khi thời khắc cái chết xảy đến, hơi thở dần yếu đi, lo lắng vì những việc còn dang dở, nuối tiếc, sợ hãi vì phải chia ly, bất lực nhìn cái chết đến mà không thể thay đổi gì. Nhiều người còn phải chịu đau nhức, vật vã, lăn lộn cho đến khi kiệt sức mới chịu dừng hơi thở. Thật bi thương, cả đời người đã phải chịu bao nhiêu thứ khổ, đến khi chết còn khổ sở hơn.
 
Tại sao con người phải khổ như vậy? Những người thật sự nghiêm túc đặt câu hỏi này và quyết tìm cho ra lời giải, sớm hay muộn cũng sẽ tìm về cùng một nơi, một sự kỳ diệu ở đất nước Ấn Độ cổ hơn 2500 năm trước. Tại đó có một người là Đức Phật Thích Ca, thời trẻ Ngài cũng đặt câu hỏi về nỗi khổ của con người và đã vượt qua tất cả trở ngại để tìm ra đáp án. Sau khi tìm ra được chân lý, Ngài truyền dạy lại cho con người những hiểu biết về khổ và cách diệt khổ.
 
Khổ do đâu mà có?
 
Bắt nguồn từ vô minh. Vô minh nghĩa là thấy biết các pháp không đúng như thật. Vì thấy biết các pháp một cách không chân thật nên sinh ra lầm chấp, ham muốn. Từ đó con người tạo ra biết bao ác pháp tự làm khổ mình, làm khổ người khác và chúng sinh.
 
Con người tạo ra khổ từ ba nơi là ý, miệng, thân. Từ nơi ý có suy nghĩ tư duy, từ nơi miệng có lời nói, từ nơi thân có hành động. Ba nơi này có những hành động thiện thì tạo ra nghiệp thiện, có những hành động ác thì tạo ra nghiệp ác. Vì vô minh nên con người lầm chấp, ham muốn, thường tạo ra nghiệp ác. Nghiệp ác này vận hành theo quy luật nhân quả mang đến quả khổ, là phiền não, đau nhức, tai nạn, thiếu thốn, bệnh tật, đau khổ.
 
Diệt khổ như thế nào?
 
Muốn diệt khổ thì cần diệt nguồn gốc của khổ, đó là tẩy trừ vô minh. Tẩy trừ vô minh bằng cách hiểu đúng và sống đúng. Hiểu đúng tức là hiểu các pháp đúng như thật, thì ta không còn lầm chấp, ham muốn. Sống đúng là sống không chạy theo tham dục, không tạo ra nghiệp ác. Muốn hiểu đúng thì phải triển khai tri kiến giải thoát. Muốn sống đúng thì ta phải sống trong thiện pháp, tức giới luật đức hạnh.

“Không làm các pháp ác
Nên làm các pháp thiện”
 
“Ngăn ác, diệt ác pháp
Sinh thiện, tăng trưởng thiện”
 
Nhờ hiểu đúng và sống đúng, tâm ta ly các dục và ác pháp, ba nơi ý, miệng, thân không còn tạo ra nghiệp ác, trở nên thanh tịnh, toàn thiện. Ta được giải thoát khỏi mọi khổ đau.
 
Tu tập giai đoạn 1 gói gọn chỉ có vậy. Trọng tâm tu tập nằm ở việc triển khai tri kiến giải thoát bằng pháp tu định vô lậu. Tri kiến cần triển khai là tri kiến về “nhân quả” và tri kiến về “vô thường”. Khi hiểu thông suốt lý nhân quả, lý vô thường thì hành giả có cái thấy biết chân thật với vạn pháp, không còn lầm chấp, ham muốn, dính mắc một thứ gì. Trong quá trình tu tập triển khai tri kiến, hành giả sống đúng giới luật đức hạnh, tức sống trong thiện pháp, bằng cách trau dồi 4 vô lượng tâm từ, bi, hỷ, xả, và thực hiện 5 giới, tiếp đó tiến lên sống đúng 10 điều lành. Khi có được tri kiến từ pháp tu định vô lậu thì thường hướng tâm như lý tác ý để thực hiện các thiện pháp. Bên cạnh đó, phải tập sức tỉnh thức để hỗ trợ cho quá trình triển khai tri kiến và giúp phát hiện ngay khi có ác pháp xuất hiện, vì vậy hành giả cần tu tập thêm pháp định chánh niệm tỉnh giác.
 
Như vậy, ở giai đoạn 1 chúng ta có 3 pháp hành chính yếu là định vô lậu, định chánh niệm tỉnh giác, pháp hướng tâm như lý tác ý, và 3 thiện pháp chính cần thực hiện là 4 vô lượng tâm, 5 giới, 10 điều lành. Đây là những pháp trọng tâm giúp hành giả xả tâm, ly dục ly ác pháp.
 
Trước khi đi vào nội dung chính, mời các bạn xem qua một lượt những gì chúng ta sẽ tìm hiểu:
 
PHẦN 1: PHÁP TU GIAI ĐOẠN 1 – XẢ TÂM, LY DỤC LY ÁC PHÁP
  1. Thông hiểu những gì cần thông hiểu
‣ Giải nghĩa một vài khái niệm
 
  1. Đạo đức nhân bản, chuyển hóa thành người thiện

‣ Nương theo Phật, Pháp, Tăng
‣ Sống bằng nghề nghiệp thiện
‣ 5 giới

‣ Thập thiện
‣ 4 vô lượng tâm từ, bi, hỷ, xả
‣ Pháp hướng tâm như lý tác ý
 
  1. Định vô lậu, triển khai tri kiến giải thoát
‣ Các thực hành định vô lậu
‣ Quán xét về nhân quả
‣ Quán xét về vô thường
‣ Thường quán xét về khổ
‣ Quán xét về vô ngã
‣ Quán xét về lý duyên hợp
‣ Quán xét về bất tịnh
... 
  1. Định chánh niệm tỉnh giác
‣ Đi kinh hành thư giãn
‣ Đi kinh hành tu tập chánh niệm tỉnh giác
‣ Tỉnh thức trong hành động sống hằng ngày

 
     ••• Phương pháp đuổi bệnh •••
         
  1. Định sáng suốt
  2. Định niệm hơi thở
  3. Ba giới hạnh ăn, ngủ, độc cư
  4. Thọ bát quan trai
  5. Mười giới sa di
     Những lưu ý khi tu tập
 
PHẦN 2: KHO TÀI LIỆU CHÁNH PHÁP
 
Đó là những gì chúng ta sẽ tìm hiểu. Bây giờ, mời các bạn bắt đầu đi vào nội dung chính.
 

1) Thông hiểu những gì cần thông hiểu

 
Có những người hiểu biết rất nhiều, học rộng hiểu xa nhưng vẫn bất an, đau khổ, tại vì sao? Vì sự hiểu biết của họ nhằm tạo ra danh, lợi, thỏa mãn cho tham dục. Đó là hiểu biết trong đau khổ, là người vô minh. Người tìm sự giải thoát không nên phát triển hiểu biết theo hướng tham dục, cũng không cần hiểu biết mênh mông, mà chỉ cần hiểu đúng pháp, đúng cách, hiểu những gì giúp ta thoát khỏi sự đau khổ, mang lại sự an ổn, giải thoát.
 
Người đến với đạo Phật đầu tiên cần trang bị những hiểu biết sau: 4 diệu đế, 12 nhân duyên, nghiệp, thân 5 uẩn, nhân quả luân hồi, thập thiện, 4 vô lượng tâm, 4 bất hoại tịnh, 4 chánh cần, 4 niệm xứ, 4 thiền, 4 như ý túc, 5 căn, 5 lực, 7 giác chi, 3 minh.
 
Trong khi tìm hiểu những điều trên sẽ có những khái niệm cần làm rõ như: vô minh, minh, thiện, ác, 5 màn che tham, sân, si, mạn, nghi, 7 kiết sử, đặc tướng, lậu hoặc, vô thường, vô ngã, tri kiến giải thoát, tâm bất động, tâm vô lậu…
 
Tiếp đó, để nhận diện, thông hiểu được cuộc sống của con người ở thế gian, chúng ta cần tìm hiểu tại sao, do nhân gì, duyên gì mà có các vấn đề sau:
 
  • Tại sao có người yểu tử, có người trường thọ? (Do nghiệp đả thương, giết hại người và chúng sinh mà tâm không có chút từ bi, thương xót).
     
  • Tại sao có người nhiều bệnh, có người ít bệnh? (Do nghiệp đánh đập, làm đau khổ người và chúng sinh).
 
  • Tại sao có người xấu, có người đẹp? (Do nghiệp bất mãn, phẫn nộ, sân hận, dữ tợn).
 
  • Tại sao có người có quyền thế lớn, có người có quyền thế nhỏ hay không có quyền thế? (Do nghiệp ganh tị tật đố, nói xấu chê bai người khác).
 
  • Tại sao có người giàu có, có người nghèo khổ? (Do nghiệp nhỏ mọn, ích kỷ, hẹp hòi, không biết bố thí, san sẻ).
 
  • Tại sao có người sinh vào gia đình hạ liệt, có người sinh vào gia đình cao quý? (Do nghiệp ngạo nghễ, kiêu mạn).
 
  • Tại sao có người trí tuệ thông minh, có người trí tuệ yếu kém, không thông minh?
 
  • Do nhân gì, duyên gì mà phân ra kẻ hạ liệt, người ưu tú như vậy?
 
Đây là những pháp chúng ta cần hiểu biết để thấy được con đường mình sẽ đi. Tất cả sẽ được lí giải rõ ràng trong các video bài giảng của Trưởng Lão ở Phần 2.
 

► Giải nghĩa một vài khái niệm

 
Dưới đây chúng tôi đưa ra giải nghĩa một vài khái niệm được sử dụng trong bản tóm lược pháp tu này để các bạn tiện theo dõi.
 
- Vô minh: là thấy biết các pháp không đúng như thật.
 
- Ác pháp: là tham lam ham muốn, sân hận hung dữ, si mê u tối, ngạo mạn tự đắc, nghi ngờ xấu xa; là phiền não, buổn khổ của tâm và đau nhức, khó chịu của thân. Nói tóm lại là các pháp làm khổ mình, khổ người, khổ chúng sinh.
 
- Thiện pháp: là đạo đức nhân bản, đức hạnh, giới luật (5 giới, 10 điều lành), là không làm khổ mình, không làm khổ người, không làm khổ chúng sinh.
 
- Lậu hoặc: là những đau khổ của thân và tâm.
 
- Tri kiến: là hiểu biết, thấy biết.
 
- Tri kiến giải thoát: là hiểu biết đúng đắn như thật, hiểu biết làm cho tâm không dao động, không đau khổ, tức là hiểu biết mang lại sự giải thoát.
 
- Triển khai tri kiến giải thoát: là quá trình triển khai tư duy, quán xét, làm cho hiểu một cách đúng đắn như thật.
 
- Quán: là tư duy, suy nghĩ, quán xét.
 
- Tâm: 6 cái biết của thân là mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý thức gộp lại gọi là tâm.
 
- Triền cái: nghĩa là màn che. Có 5 màn che là tham, sân, si, mạn, nghi.
 
- 7 kiết sử: là 7 pháp trói buộc con người, khiến cho đau khổ. Đôi khi chúng ta nghe có 5 hạ phần kiết sử, 5 thượng phần kiết sử, thì những cái này tóm gọn chung lại thành 7 kiết sử.
 
- Pháp trí: là trí tuệ hiểu biết về các pháp sinh, già, bệnh, chết là khổ.
 
- Nhiếp tâm: nhiếp phục tâm, bắt tâm làm theo lệnh. Ví dụ nhiếp tâm vào bước đi, tức là lệnh cho tâm chỉ biết và nằm ở bước đi, không được biết các thứ khác.
 
- An trú tâm: tâm trú vào, ở yên một nơi một cách an ổn. Ví dụ tâm an trú vào bước đi, nghĩa là tâm trú yên vào bước đi một cách an ổn.
 
- Tâm bất động: tâm không dao động trước mọi ác pháp và cảm thọ tấn công.
 
- Vô sự: tâm không bận rộn lo lắng, suy nghĩ, tính toán chuyện gì.
 
- Tà niệm: tà niệm thuộc về tâm là tâm buồn rầu, lo sợ, giận hờn, ghen tức, căm thù, thương nhớ, phiền não… Tà niệm thuộc về thân là thân bị bệnh khổ, đau nhức chỗ này, đau nhức chỗ kia, ngứa ngáy, mỏi mệt, chóng mặt, đau lưng, đi đứng không vững vàng…
 
- Chánh niệm: là niệm chân chánh, niệm thiện, niệm thanh thản, an lạc, vô sự, niệm không làm khổ mình, không làm khổ người và chúng sanh.
 
- An tịnh: thanh tịnh, an ổn. Thường dùng trong câu tác ý “an tịnh thân hành” để thân được an ổn, thanh tịnh, không mệt mỏi, đau nhức, bệnh tật.
 

2) Đạo đức nhân bản, chuyển hóa thành người thiện

 
Sau khi thông hiểu những gì cần thông hiểu, việc đầu tiên chúng ta cần làm là học cách trở thành một con người thiện. Người thiện là người sống đúng với đạo đức nhân bản, không tự làm khổ mình, không làm khổ người khác và các loài chúng sinh.
 
Bởi lẽ con người ai cũng ít nhiều có sự vô minh, phàm phu, thói hư tật xấu, sống chạy theo tham dục và ác pháp, nên thường tự làm khổ mình và làm khổ người khác. Nay biết đến chánh pháp thì ta phải điều chỉnh lại, phải hiểu đúng và sống đúng. Phần hiểu thì chúng ta đã bắt đầu học ở trên và sẽ còn tiếp tục học nữa. Còn sống đúng thì phải làm như thế nào?
 

Ta cần noi theo gương hạnh của Phật, gương hạnh của các vị Thánh Tăng, Thánh Ni để sống đúng theo đạo đức nhân bản Phật dạy, là thực hiện 5 giới, 10 điều lành, 4 vô lượng tâm từ, bi, hỷ, xả.

Nhờ vậy ta được chuyển hóa thành một con người thiện với đầy đủ phước báu không chỉ đời này mà cả những đời sau, có trí tuệ và lòng cao thượng, cuộc sống hạnh phúc an vui, sống không còn khổ và không làm khổ người khác.
 

► Nương theo Phật, Pháp, Tăng

 
Người mới tìm đến đạo Phật, tâm còn quen với lối sống chứa nhiều ác pháp, nên cần có những con người cao thượng và những lời dạy cao thượng để nương theo.
 
Con người cao thượng không có ai hơn các bậc giải thoát chứng đạt chân lý, đó là Phật và các vị Thánh Tăng, Thánh Ni.
 
Lời dạy cao thượng không gì hơn lời dạy của Phật và các vị Thánh Tăng, Thánh Ni.
 
Nương theo Phật, Pháp, Tăng và làm theo lời họ dạy. Các vị đó sống như thế nào thì ta cố gắng sống như thế nấy. Các vị đó dạy như thế nào thì ta cố gắng làm theo như thế. Đặt trọn lòng tin và quyết tâm làm theo thì tự nhiên ta sẽ ly được các dục và ác pháp, tâm được thanh tịnh, giải thoát.
 

► Sống bằng nghề nghiệp thiện

 
Vì Phật tử vẫn còn sống tại gia và phải làm việc để nuôi sống bản thân, nên Phật dạy pháp tu đầu tiên cần thực hành là từ bỏ 6 nghề ác.
 
Những nghề ác tạo ra sự đau khổ, chết chóc cho chúng sinh, mang lại quả khổ cho chính ta và gia đình. Sáu nghề ác cần từ bỏ là:
 
  • Nghề săn bắn.
 
  • Nghề chài lưới.
 
  • Nghề buôn bán thịt sống, là giết hại chúng sinh rồi bán.
 
  • Nghề buôn bán thịt chín, là lấy thịt chúng sinh nấu thành các món ăn rồi bán.
 
  • Nghề sản xuất và buôn bán rượu, thuốc phiện, thuốc lá… là những chất gây nghiện, chất kích thích.
 
  • Nghề buôn bán người, là bán nô lệ, mãi dâm.
 
Từ bỏ 6 nghề ác, chuyển sang sinh sống bằng những nghề nghiệp thiện, nhờ đó ta không bị mất tâm từ bi, cuộc sống trở nên thanh thản, gặp may mắn nhiều hơn.
 

► 5 giới

 
Pháp thiện tiếp theo chúng ta cần học và thực hiện là 5 giới. Đây là 5 đức hạnh làm người thiện giúp quý bạn thay đổi cuộc sống đau khổ ở thế gian. Thay đổi như thế nào? Người thế gian sống ăn thực phẩm động vật, còn người tu ăn thực phẩm thực vật; người thế gian sống tham lam, nhiều ham muốn, còn người tu sống từ bỏ lấy của không cho; người thế gian coi thường sự sống chung thủy, còn người tu sống coi trọng sự chung thủy; người thế gian sống xem thường nói lời thành thật, nên thường hay nói dối, còn người tu sống quý trọng lời nói thành thật, nên không dám nói dối; người thế gian xem thường phẩm cách, sống nghiện ngập, rượu chè say xỉn, nên thường uống rượu, còn người tu sống không dám xem thường nghiện ngập, rượu chè say xỉn, nên không uống rượu. Đó là những sự khác biệt giữa người thế gian và người tu theo Phật.
 
Nhờ thực hiện sống đúng 5 đức hạnh mà cuộc sống con người bớt đi rất nhiều khổ đau, và đủ tiêu chuẩn để kiếp sau được sinh lại làm người thiện.
 
 
  • Giới thứ nhất: Đức hiếu sinh
 
Đức hiếu sinh là lòng thương yêu sự sống của muôn loài trên hành tinh này. Người có đức hiếu sinh là người: Không sát sinh, không ăn thịt chúng sinh. Không xúi giục người khác sát sinh. Không vui theo sự sát sinh của người khác. Biết xấu hổ, sợ hãi khi lỡ làm hại, làm đau khổ chúng sinh. Có lòng yêu thương đến hạnh phúc của tất cả chúng sinh.
 

Muốn thực hiện được đức hiếu sinh, cần giữ gìn các điều trên và tu tập 4 vô lượng tâm từ, bi, hỷ, xả.

Thực hiện đức hiếu sinh giúp con người thoát ra khỏi bản chất hung ác của loài động vật, sống không làm khổ mình, không làm khổ người và chúng sinh, biến hành tinh này thành cảnh sống an lạc cho muôn loài.
 
*** Về vấn đề ăn chay:
 
Người tu theo đạo Phật nên thực hiện ăn chay vì lòng thương yêu sự sống của loài vật. Ăn chay như vậy là nuôi thân mạng một cách chân chánh, đồng thời tu tập được lòng từ bi. Một khi có sự đồng cảm, thương yêu sự sống của loài vật thì việc ăn chay rất dễ dàng và không bị thoái chuyển.
 
Còn nếu một người ăn chay vì mục đích khác, không phải vì tôn trọng, thương yêu sự sống loài vật thì đó là họ đang huân nghiệp ăn chay, giống như trâu, bò, ngựa, dê ăn cỏ. Ăn chay như vậy chưa thực hiện được lòng từ bi, chưa trừ bỏ lòng tham đắm, sân hận và rất dễ thoái chuyển ăn thịt trở lại.
 
Muốn phát triển lòng thương yêu sự sống loài vật, bạn nên thường xuyên quan sát, tìm hiểu cuộc sống của chúng và trau dồi tâm từ bi. Quan sát chúng từ thiên nhiên, xem các chương trình thế giới động vật, chúng ta sẽ nhận thấy các con vật cũng có cuộc sống y như chúng ta, cũng có gia đình, thậm chí biết sinh hoạt theo quần thể, xã hội. Chúng cũng có các trạng thái cảm xúc, có da thịt, máu xương, biết đau đớn, khổ sở. Trên hết, chúng cũng muốn được sống và luôn đấu tranh để được sống, y như con người vậy. Hãy quan sát, cảm nhận, tư duy để có sự đồng cảm.
 
Một người muốn ăn chay được dễ dàng thì cần có sự đồng cảm trên và nên tăng trưởng lòng thương yêu bằng cách trau dồi tâm từ, bi, tu tập định vô lậu quán xét về đức hiếu sinh. Nên quán xét thực phẩm bất tịnh để trừ bỏ tâm tham ăn.
 
  • Giới thứ 2: Đức ly tham
 
Đức ly tham là không tham lam trộm cắp, không gian lận, không lấy của không cho. Đây cũng là đức buông xả, đức thiểu dục tri túc (ít muốn biết đủ), tức là xả ly lòng tham lam, ích kỷ, nhỏ mọn, không dính mắc vật chất thế gian. Nhờ vậy tâm được thanh thản, an lạc, vô sự.
 
Muốn thực hiện được đức ly tham, buông xả thì phải thường xuyên quán các pháp vô thường, vô ngã, do duyên hợp và thường đau khổ.
              
  • Giới thứ 3: Đức chung thủy
 
Đức chung thủy là sống chung thủy một vợ một chồng, không tà dâm, ngoại tình. Đây là một đạo đức gia đình mà mọi người trên thế gian phải học và sống cho đúng để không làm khổ người thân thương, tạo nên một gia đình đầm ấm, hạnh phúc.
 
  • Giới thứ 4: Đức thành thật
 
Đức thành thật thể hiện một con người có lòng tự trọng, cũng như tôn trọng người khác và tạo cho ta có đầy đủ lòng tin đối với mọi người. Người có đức thành thật là người: Không nói dối. Không nói thêu dệt. Không nói hai chiều. Không nói lời độc ác, mắng nhiếc, chửi rủa, nói bậy.
 
  • Giới thứ 5: Đức minh mẫn
 
Không uống rượu, bia, cà phê, không hút thuốc lá, thuốc lào, thuốc phiện… Nói tóm lại là không sử dụng các chất kích thích, chất gây nghiện. Đức minh mẫn giúp ta có sự sáng suốt, ta tự biết mình, làm chủ mình, không để những thứ gây kích thích, gây nghiện chi phối, mang lại khổ đau cho bản thân và gia đình.
 
*** Cách thực hiện 5 giới:
 
Giới là hạnh sống giúp chúng ta ly dục ly ác pháp. Do các dục ta đã huân thành nghiệp, thành thói quen rất khó bỏ, nên ta chia nhỏ 5 giới ra để thực hiện giữ từng giới. Đầu tiên, hành giả chọn một giới phù hợp nhất, dễ thực hiện nhất với mình, rồi kiên trì triển khai trí tuệ, tư duy quán xét (định vô lậu) cho đến khi hiểu thông suốt về giới đó, biết rõ lợi ích khi giữ giới, tác hại khi phạm giới. Từ sự hiểu đó, hành giả khéo léo áp dụng vào đời sống, thay đổi bản thân từng chút cho đến khi giữ được một giới trọn vẹn.
 
Sau khi giữ được một giới rồi, ta chọn giới thứ hai và thực hành y như giới thứ nhất. Cứ vậy tăng dần lên cho đến khi ta thành tựu 5 giới. Việc thông hiểu trước rồi mới thực hành và chia nhỏ giữ từng giới giúp ta không bị ức chế, thân được khỏe mạnh và tâm được bình an. Giữ được một giới là ta ly được một khía cạnh dục trong tâm, nhờ đó nhân quả từ từ chuyển giúp ta tăng trưởng thiện pháp trong sự an vui.
 
Ngược lại, nếu chưa thông hiểu mà mang giới ra áp đặt, hay áp dụng không khéo léo thì sẽ bị ức chế tâm. Kết quả ta không ly được dục và về lâu dài sẽ phạm giới. Vì vậy các bạn hãy tìm hiểu kỹ những bài giảng của Trưởng Lão về giới hành (ở Phần 2), tức là cách thực hiện giới được trọn vẹn mà không bị ức chế thân, tâm.
 
Ví dụ, ta chọn giới đức hiếu sinh và thực hiện ăn chay ngay lập tức thì sẽ rất khó, bởi từ khi sinh ra đến giờ ta ăn mạng động vật đã thành thói quen. Vì vậy, ta vẫn ăn như mọi ngày bình thường, nhưng thường xuyên tư duy, trau dồi về lòng từ bi, luôn tự nhắc bản thân về lòng thương yêu sự sống loài vật, sự bình đẳng về quyền được sống. Sau một thời gian, trí tuệ ta dần thông suốt và lòng từ bi trong ta chớm nở, ta bắt đầu giảm dần số lượng thịt cá trong từng bữa ăn. Và có thể chọn ra một vài ngày trong tháng để ăn chay, khi quen rồi thì tăng số ngày ăn chay trong một tháng lên. Quá trình này giúp cơ thể dần thích nghi được chế độ ăn không có mạng động vật và tâm được huấn luyện thấm nhuần thiện pháp từ bi. Kiên trì như vậy, dần dần ta tiến tới ăn chay thành công và giữ được giới đức hiếu sinh một cách trọn vẹn.
 

Trong 5 giới, có hai giới khó thực hiện nhất là không sát sinh và không nói dối. Hành giả nên chú ý hơn về hai giới này. 

Trên đây là những tóm tắt ngắn gọn về 5 giới, để hiểu rõ ràng hơn và được hướng dẫn tỉ mỉ cách thực hành, mời các bạn chuyển qua Phần 2 nghe những bài giảng của Trưởng Lão Thích Thông Lạc về 5 giới, đạo đức nhân bản, lòng yêu thương.
 
Tiếp sau 5 giới, Trưởng Lão dạy chúng ta nên tiến lên thực hành sống với thập thiện. Đây là mục tiêu chính của giai đoạn 1, hành giả nên thực hiện vì những lợi ích to lớn mà nó mang lại.
 

► Thập thiện

 
Phật dạy cho con người 10 điều thiện nhằm làm 3 nơi thân, miệng, ý trở nên toàn thiện, nhờ đó đưa con người thoát khỏi cảnh lầm than, cuộc sống được hạnh phúc, an vui ngay trong đời hiện tại và mãi mãi về sau.
 
Thiền định, tam minh từ trước đến nay rất ít người làm được. Còn thập thiện thì khác. Thập thiện mang lại lợi ích cho số đông, bởi mọi người đều có thể tu được thập thiện. Nếu mọi người đều làm 10 điều thiện sẽ đem lại hạnh phúc, an vui, thanh bình, đem lại cho xã hội có trật tự, con người không còn làm khổ nhau, biết thương yêu giúp đỡ nhau, cùng sống chan hòa một tình thương phủ trùm bên nhau.
 
10 điều thiện chia làm 3 nhóm, thân có 3 điều thiện, miệng có 4 điều thiện, ý có 3 điều thiện:
 
  • Thân có 3 điều thiện, ngược lại là 3 điều ác:
- Không giết hại chúng sanh.
- Không trộm cắp.
- Không tà dâm.
 
  • Miệng có 4 điều thiện, ngược lại là 4 điều ác:
Không nói dối.
- Không nói thêu dệt.
- Không nói 2 chiều.
- Không nói lời hung ác.
 
  • Ý có 3 điều thiện, ngược lại là 3 điều ác:
Không tham lam.
- Không sân hận.
- Không si mê.
 
Người sống đúng thập thiện phải thọ hưởng những lợi ích và phước báu lớn sau:
 
  • Thân không bệnh tật.
 
  • Chuyển cảnh khổ đau, đói rét thành cảnh an vui, no ấm, giàu sang, và đưa đến những cảnh thuận duyên mãi mãi trong cuộc đời.
 
  • Gia đình hạnh phúc, vợ chồng hòa thuận, con cái hiếu thảo.
 
  • Được mọi người kính yêu tin tưởng, đồng thời luôn luôn nghe và làm theo lời dạy.
 
  • Trí tuệ thù thắng, thông minh sáng suốt không ai hơn, thấu suốt lý nhân quả thiện ác không còn chỗ nào bị ngăn che.
 
  • Lời nói thẳng thắn được mọi người kính phục yêu mến.
 
  • Nói lời êm ái ngọt ngào ai nghe cũng vui mừng và yêu thích.
 
  • Không nói lời hung dữ hay chửi mắng to tiếng với một ai cả.
 
  • Không sợ sệt bất cứ một điều gì, một hoàn cảnh nào. Không thối lui trước những nghịch cảnh. Đứng trước đám đông người phát biểu những ý kiến đều nói năng lưu loát, không ngập ngừng, tiếng nói sang sảng, nhiếp phục người nghe.
 
  • Ba nghiệp thân, khẩu, ý đều thanh tịnh, không bị nhiễm ô bởi một dục lạc nào trong thế gian.
 
  • Chuyển hóa được nghiệp ác từ trước đến nay và tạo cho mình nhiều phước báu, ngay trong hiện tại đời sống được an vui, yên ổn, hạnh phúc và mãi mãi ở kiếp sau cũng được giàu sang, sung sướng, đầy đủ mọi nhu cầu cần thiết cho cuộc sống.
 
  • Thiền định, tam minh thì ít người làm được. Nhưng đạo đức nhân bản (thập thiện) thì ai cũng có thể làm được, thậm chí con trẻ 5 tuổi, 10 tuổi đã có thể bắt đầu tu tập. Ví dụ ta dạy chúng không giết kiến là đã dạy chúng tu thập thiện. Cho nên thập thiện dễ tu hơn và có thành quả lớn, giúp cho nhiều người giải khổ, con người không còn tự làm khổ mình, không làm khổ nhau nữa, mà cùng chung sống an vui hạnh phúc, thế gian này trở thành cõi thiên đường cực lạc.
 
  • Khi con người sống đúng thập thiện là đang sống trong từ trường thiện, tâm đã muội lược tham sân si. Thầy Thông Lạc dạy rằng: Các con giữ được 5 giới, hãy tiến lên giữ được thập thiện và học cách giữ tâm bất động. Khi các con chết, do tu tập muội lược được tham sân si nên từ trường thiện không đi tái sinh, vì nó không tương ưng được. Lúc đó, cái tưởng của các con sẽ sử dụng, dẫn từ trường thiện đi vào trạng thái bất động, vô lậu với thời gian rất ngắn (một vài giờ đến vài ngày). Dùng tưởng đi rất mau vào Niết Bàn. Sở dĩ lúc còn cái thân tu rất khó vì có nhiều thứ ràng buộc, lôi kéo, cảm thọ tác động…
 
Đức Phật dạy cho con người pháp môn tuyệt vời là thập thiện và xác định những lợi ích to lớn khi làm 3 nơi thân, miệng, ý trở nên toàn thiện. Cho nên, trong đời nếu ai gặp được thập thiện là người đã gieo căn lành trong nhiều kiếp, nhất là thường kính trọng 3 ngôi tam bảo Phật, Pháp, Tăng. Nếu không chịu sống với thập thiện rồi để cuộc đời đen tối, khổ đau thì thật là uổng phí. Giống như một người có kho báu mà không chịu đem ra dùng. Còn nếu biết cố gắng sống đúng với thập thiện thì sẽ thấy phước báu đến ngay liền, không chờ đợi. Bây giờ chúng ta đi vào giải thích từng phần của thập thiện.
 
- 3 điều thiện của thân:
 
  •  Thân không giết hại chúng sinh.
 
Ta cần thực hiện những điều sau: Không giết hại chúng sinh. Không ăn thịt chúng sinh. Không vui theo sự sát sinh của người khác. Không xúi người khác sát sinh. Biết sợ hãi, xấu hổ, sám hối khi lỡ làm đau khổ chúng sinh.
 
Vạn vật sinh ra trong thế gian này, có loài nào không sợ chết, khổ đau, bệnh tật? Dù là con người hay con vật. Xét cái đau khổ của con vật khi bị cắt cổ nhổ lông, giãy giụa trên thớt dưới dao, tiếng kêu la quằn quại, nhìn lại cái đau khổ khi chúng ta đau bệnh ngặt nghèo, cơ thể rã rời, đau nhức vô kể khi nằm trên giường bệnh có khác gì nhau? Ở đời không ân huệ nào lớn hơn tha mạng chết. Có nỗi vui mừng nào hơn khi được tha chết?
 
Hãy trau dồi tâm từ bi, thấy cái thương đau của con vật như thương đau của chính mình thì việc từ bỏ ăn mạng động vật không còn khó khăn.
 
Sát sinh là nhân tạo ra nghiệp bệnh khổ, tử vong, tai nạn, yểu tử.
 
Thà nghèo mà mạnh giỏi, còn hơn giàu mà đau ốm.
 
Không sát sinh mà còn phóng sinh là nghiệp lành đứng đầu trong đạo Phật. Trong các giới đức làm người, là 5 giới, 10 điều lành, 10 giới sa di, Phật luôn đặt giới không sát sinh lên đầu tiên.
 
Kinh thập thiện dạy, nếu ai không giết hại chúng sinh, không làm đau khổ chúng sinh thì sẽ được 10 điều lợi ích: Tất cả chúng sinh đều kính mến. Lòng từ bi mở rộng đối với tất cả chúng sinh. Trừ sạch thói quen giận hờn. Thân thể thường được mạnh khỏe. Tuổi thọ được lâu dài. Thường được người tốt giúp đỡ. Ngủ ngon giấc không ác mộng. Trừ được các mối thù oán. Khỏi bị đọa vào 3 đường ác. Sau khi chết được sinh vào cõi an vui.
 
  • Thân không trộm cắp.
 
Ta cần thực hiện: Không tham lam trộm cắp, không lấy thứ gì của người khác khi chưa được cho phép, dù là vật nhỏ nhất. Thường bố thí, thực hành tâm buông xả.
 
Tiền bạc là huyết mạch cho đời sống con người. Ai cũng cần có nó để phục vụ các nhu cầu thiết yếu ăn, mặc, ở… Trộm cắp lấy của người khác là lấy đi phương tiện sống của họ, làm cho họ đau khổ, có thể đi đến quyên sinh.
 
Của phi nghĩa có giàu đâu, vào cửa trước sẽ ra cửa sau.
 
Nhân trộm cắp, quả nghèo đói.
 
Kinh thập thiện dạy, người không trộm cắp, mà còn biết bố thí, giúp đỡ người khác sẽ được 10 quả báo phước lành: Tiền của dư dả, không bị ai lấy mất, không bị thiên tai hỏa hoạn làm mất, con cái không phá tán. Được nhiều người kính mến tin cậy. Không bị ai lừa dối, gạt gẫm. Xa gần đều khen ngợi lòng ngay thẳng, từ thiện của mình. Lòng luôn được an ổn, không lo sợ mất mát hư hao. Tiếng lành đồn xa. Ở chỗ đông người không bị khiếp đảm. Tiền của, tính mạng, nhan sắc, sức khỏe luôn được đầy đủ. Tâm thường sẵn lòng bố thí cho người bất hạnh. Khi chết được sinh vào cõi an vui hạnh phúc.
 
  • Thân không tà dâm.
 
Không dan díu với người khác khi đã có vợ (chồng).
 
Không chung chạ, ngoại tình với người khác, nhờ đó cuộc sống gia đình mới được an vui, đầm ấm, gia đình làm ăn phát đạt, thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn.
 
Dâm dục thái quá đưa con người đến sức khỏe hao mòn, bệnh nan y, thọ mạng không được lâu dài.
 
Người giữ gìn giới không tà dâm là người biết tôn trọng nghĩa tình với người phối ngẫu, là biết bảo vệ sức khỏe bản thân, đem lại an vui hạnh phúc cho gia đình, góp phần làm lành mạnh xã hội.
 
Kinh thập thiện dạy người không tà dâm được 4 điều lợi ích: 6 căn (mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý) được vẹn toàn. Đoạn trừ hết thảy những phiền não quấy nhiễu. Ở đời được mọi người khen ngợi, được tiếng tốt. Vợ con không ai dám xâm phạm.
 
Trên đây là 3 điều thiện nơi thân. Tiếp đến là 4 điều thiện nơi miệng. Phần nhiều đau khổ, tai họa do nơi miệng mà ra. Vì vậy cần cẩn thận trong lời nói, chú ý tu tập cho khẩu nghiệp được thanh tịnh.
 
- 4 điều thiện của miệng:
 
  • Miệng không nói dối.
 
Nói dối là nói không đúng sự thật, chuyện có nói không, chuyện không nói có. Sống trong xã hội, người nào nói dối là tự mình làm mất lòng tin của mọi người. Nói dối rất tai hại cho sự chung sống, nói dối quen miệng trở thành cái tật, rất khó diệt trừ. Nói dối mà người ta biết được thì kể như mình bị cô lập, không còn ai muốn thân cận với mình, nghĩa là nói dối sẽ làm cho uy tín mình không còn nữa.
 
Hòa Thượng Thiện Hoa dạy: Người ta ở đời, dù nói đùa chơi cũng không được nói dối, vì lẽ nói dối mà người ta biết mặt, về sau có nói thật người ta cũng không tin. Nhất là người học đạo, không nên nói dối, cho rằng mình chứng Thánh, hay đắc đạo. Nói như thế là phạm tội đại vọng ngữ sẽ đọa vào ba đường ác.
 
Kinh thập thiện dạy, người không nói dối được 8 điều lợi ích: Được mọi người tin tưởng. Lời nói ra được người người kính yêu. Miệng thường thơm sạch. Lời nói thường êm ái. Luôn được an vui như ý nguyện. Lời nói không buồn giận và luôn được vui vẻ. Lời nói được mọi người tôn trọng, vâng theo. Trí tuệ thù thắng không ai hơn.
 
  • Miệng không nói lời thêu dệt, phù phiếm.
 
Người đời thường hay trau chuốt lời nói. Khi kể lại một chuyện gì, muốn tạo sự chú ý của người và tăng phần hấp dẫn của câu chuyện, người ta thường thêm mắm, giặm muối.
 
Đi buôn thì vật xấu mà nói là tốt, hàng giả mà bảo là hàng thật và bán giá cao, gạt người mua khiến người ta mua đồ mà xài không được.
 
Vì một chút lòng hờn ghen liền dùng lời nói thêu dệt để cho đôi bên thù hận có thể giết hại lẫn nhau, làm tổn hại tánh mạng người khác. Chỉ vì một chút lòng ganh tị hoặc thù vặt bèn dùng lời thêu dệt để lung lạc lòng người, hoặc quyến rũ, gạt gẫm người khác, làm tổn hại danh dự và tài sản, cốt để đem lại cho mình được nhiều lợi lạc và còn được tiếng thơm, tiếng tốt.
 
Ngược lại, người có lời nói đúng đắn, không thêu dệt, nói chánh lý, không dối gạt người, không làm tổn hại danh giá, tài sản và thậm chí cả tánh mạng của người, đó là người tốt.
 
Kinh thập thiện dạy, người không nói lời phù phiếm được 3 lợi ích: Được mọi người quý mến. Thường đáp được những câu hỏi khó. Có đầy đủ uy tín cao quý trong cuộc đời.
 
  • Miệng không nói lật ngược, không nói hai chiều.
 
Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo. Ở đời, có lắm kẻ mồm mép, vừa nói một lúc sau nói ngược trở lại; lấy quấy làm phải, lấy phải làm quấy, lật qua lật lại, tráo trở.
 
Những hạng người này ta nên tránh xa. Họ thường dụm ba, dụm bảy, đem chuyện người này nói ra, nói vào, bêu xấu, khiêu khích người khác để tạo bất hòa, thù hận. Họ còn đem chuyện của người này, gièm pha với người kia, có lúc nhạo báng, khinh chê làm cho đôi bạn thù hận, sanh mối tương tranh. Họ còn dùng môi mép, đứng trung gian gây ác cảm đôi bên để đi đến kiện thưa.
 
Người không nói lật lọng, không có làm phiền muộn bà con lối xóm, nên được thân bằng quyến thuộc, kẻ xa, người gần đều kính mến. Người không nói lưỡi hai chiều thường dùng lời êm ái, an ủi, khuyên giải và giúp cho bà con, xóm giềng được hòa thuận, thân yêu, khiến cho ai nấy cũng vui vẻ, an lòng. Người này đến đâu cũng được mọi người kính yêu, gặp khó khăn thì người ấy sẽ đứng ra thu xếp, hòa giải một cách dễ dàng.
 
Người không nói lật lọng là người luôn luôn đem lời nói hòa giải giúp cho mọi người sống trong xã hội được an vui, hạnh phúc.
 
Kinh thập thiện dạy, người không nói lưỡi hai chiều được 5 điều không thể phá hoại: Nhân bất hoại, thân thường được vui vẻ, tốt lành, không bị hư hoại. Sống trong gia đình, dòng họ được sum họp, hòa hợp. Đức tin bất hoại, ai cũng tin tưởng. Pháp hạnh bất hoại, đức hạnh không bị hoại diệt. Thiện hữu tri thức bất hoại, gặp được nhiều bậc thiện hữu tri thức, người tốt.
 
Vậy người Phật tử tại gia phải giữ gìn giới không nói lật lọng, và thường hành hạnh nói lời hòa nhã, êm ái thì sẽ được phước đức lớn.
 
  • Miệng không nói lời hung ác.
 
Nói lời hung ác là nói ác cho người khác, vu khống người, luôn luôn bươi móc việc xấu của người. Người nói lời hung ác là người cộc cằn, thô lỗ, mắng nhiếc nguyền rủa, thề thốt độc địa, khinh chê người, khiến cho người ta lo sợ, hổ thẹn và khổ sở trong lòng.
 
Thí dụ có người dùng lời ác độc, thề thốt tự hại mình mà trong lòng thì muốn cho người ta bị mắc lời thề ấy, hoặc hại người: Tôi mà có nói gian cho tôi chết đi. Kẻ nào nói gian cho trời đánh nó chết đi, cho nó ra đường xe cán nó đi...
 
Lời nói dữ thường xuất phát từ tâm sân hận. Người không nói lời hung ác là người biết dùng ái ngữ. Tục ngữ ta có câu: Nói ngọt, lọt đến xương. Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
 
Người không nói lời hung ác thì lời nói ôn tồn, nhã nhặn, hàm chứa một tâm hồn đầy nhân ái, tha thứ, bao dung.
 
Kinh thập thiện dạy, người nào không nói lời hung dữ sẽ được 8 món công đức: Nói đúng pháp. Lời nói có ích lợi. Lời nói đúng chân lý. Lời nói khôn khéo. Nói điều chi người cũng vâng theo. Lời nói được nhiều người tin. Lời nói không ai chê. Lời nói được yêu mến.
 
Trên đây là 4 điều thiện nơi miệng. Phải khéo léo giữ gìn, tu tập, thường ở một mình để 4 hành động của cái miệng được thanh tịnh. Khi giữ gìn được thì lời nói trở nên chậm rãi, từ tốn. Còn nếu nói mau lẹ quá thì rất dễ phạm phải 4 điều ác nơi miệng. Ta phải tập giữ cho lời nói đi sau ý. Khi ý sống với 3 điều thiện, không phạm phải 3 điều ác thì lời nói cũng trở nên chân thật, êm ái.
 
- 3 điều thiện của ý:
 
  • Ý không tham lam.
 
Con người bị cám dỗ bởi 5 thứ dục lạc: tiền của, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ. Nếu chạy theo ham muốn và đạt được thì sinh tâm vui mừng. Không đạt được thì trở nên buồn khổ, sầu não.
 
Ham tiền của thì đầy đọa thân mạng lao động vất vả, đầu óc suy tư tính toán. Thân và tâm không được an vui ngơi nghỉ. Người đời phải rất cực khổ mới tạo dựng được của cải tài sản, nhưng khi đạt được thì ngồi trên đống tiền như ngồi trên đống lửa, lo sợ bị mất, tâm luôn bất an. Vất vả bao lâu nhưng hưởng thụ lại rất nhanh chóng.
 
Ham sắc đẹp thì phải tổn phí tiền bạc rất nhiều, lại mất sức khỏe, hao tổn tinh thần.
 
Ham danh vọng, quyền cao chức trọng thì phải vào luồn ra cúi, nịnh bợ, hối lộ.
 
Ham ăn uống món ngon vật lạ thì dễ mắc nhiều bệnh tật khó trị. Ăn uống phi thời thức ăn trở thành độc dược.
 
Ham ngủ nghỉ thì trí tuệ tối tăm, mê muội, sinh biếng nhác, thiếu ý chí chủ động, thiếu nghị lực, dần dần trở thành kẻ ăn bám vào người khác.
 
Do ham muốn mà dễ gây nhiều nghiệp ác.
 
Chúng ta phải thường ngày khắc phục, chiến đấu chống lại lòng ham muốn của mình để không bị 5 thứ dục lạc lôi cuốn. Nhờ thế mới có được đời sống thiểu dục tri túc, đơn giản, thanh tao, an nhàn.
 
Diệt tâm tham muốn là diệt đế, là niết bàn, là trạng thái tâm hồn thanh thản. Chỉ cần không ham muốn là các bạn đạt được cảnh giới niết bàn ngay đó.
 
Nhiều người cho rằng không còn ham muốn thì cuộc sống tẻ nhạt, không còn việc gì để làm. Đó là cái hiểu lầm lạc của người chưa ly dục. Người tu tập ly được các dục sẽ sinh ra hỷ do ly dục. Ly càng nhiều thì sự hỷ lạc càng nhiều. Ly dục đến đâu thấy sự thanh thản, giải thoát đến đó. Bởi vậy tu là sướng chứ không phải khổ, không phải tẻ nhạt. Người ham muốn mà không đạt được mới thấy tẻ nhạt.
 
Nên nhớ sống để trả nghiệp, dùng pháp Phật để giải trừ ác nghiệp, chứ không phải sống để tham đắm, si mê dục lạc mà tạo thêm nghiệp.
 
Làm sao để ý không tham lam, dính mắc?
 
Phải tu tập định vô lậu, đặt niệm bất tịnh, vô thường trước mặt, tư duy quán xét để tri kiến giải thoát trong đầu phóng ra. Nhờ có tri kiến giải thoát, ta thông suốt các pháp là vô thường, thân người và thực phẩm là bất tịnh, ta thấy rõ sự tai hại của các dục, lợi ích thiết thực khi ly dục. Từ đó ta không còn tham lam, dính mắc, ta chọn sống hạnh thiểu dục tri túc, cuộc sống đơn giản, thanh tao, an nhàn. Bên cạnh định vô lậu, ta phải tu tập chánh niệm tỉnh giác, đi kinh hành để đối trị cơn buồn ngủ.
 
Kinh thập thiện dạy, người nào không tham đắm dục lạc thế gian thì được 5 món công đức tự tại: 3 nghiệp thân khẩu ý được tự tại, các căn được đầy đủ. Của cải được tự tại, không hao mất. Phước đức tự tại. Ngôi vua tự tại. Được hưởng lợi gấp trăm lần đã định.
 
Người đệ tử Phật chẳng những từ bỏ tật tham lam, mà còn hành hạnh bố thí. Bố thí tức là hạnh buông xả. Buông bỏ, không chất chứa tài sản của cải, mà còn chia sẻ cho người nghèo khổ, bất hạnh. Không màng công danh, phú quí, không bận tâm tranh danh đoạt lợi, hằng sống với tâm buông xả thì tâm trí thảnh thơi, dạo chơi thanh thản, giấc ngủ an lành, ít bệnh, ít khổ. Người có nhiều tài sản, của cải, danh lợi thì sẽ mệt mỏi nhiều, và sẽ đi chậm hơn những người biết buông xả chúng trên hành trình đi về xứ Phật, tức là giải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
 
  • Ý không sân hận.
 
Tâm sân là tâm đau khổ, tâm hung ác, dữ tợn. Tâm sân hận vốn không có, chỉ vì chúng ta lầm chấp thân tâm của mình là ngã thật, từ đó luôn luôn bảo vệ, che chở.
 
Muốn biết người tu hành được giải thoát ở mức độ nào thì chúng ta chỉ cần nhìn lòng sân của họ là biết.
 
Trong 10 điều ác, lòng sân là pháp ác nhất.
 
Sân sinh khởi là trăm ngàn tai họa ập đến. Giận hờn làm mình và mọi người xung quanh đau khổ. Vì vậy, phải thường dùng pháp hướng tâm tự nhắc bản thân “giận hờn là đau khổ, là bao nhiêu tai nạn xảy đến, giận hờn khiến gia đình bất an không nguôi, vậy từ nay về sau tâm không được giận hờn nữa, tâm phải như cục đất”.
 
Lỡ khi cơn sân ập đến, ta hướng tâm nhắc ngay “tuyệt đối không nói gì, tuyệt đối không làm gì trong lúc này” và giữ gìn đúng như vậy. Không nói gì, không làm gì thì sẽ không gây ra tai họa.
 
Nhưng pháp hướng tâm là chưa đủ, cần trau dồi tâm từ bi và quan trọng nhất phải tu tập định vô lậu, quán vô ngã để thấy thân, tâm thật có không? Để phá đi cái ngã. Không chấp ngã nữa là hết sân. Thường xuyên đặt niệm thân 5 uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức, để quán xét xem nó có thường còn, có phải cái ngã thật không.
 
Kinh thập thiện dạy, người nào làm chủ được tâm sân sẽ được 8 món công đức: Tâm không tổn não. Tâm không giận hờn. Tâm không tranh giành. Tâm được hòa hợp. Tâm được từ bi. Tâm thường làm lợi ích và an vui, an ổn cho mình, cho chúng sinh. Thân tướng được trang nghiêm, mọi người đều tôn kính. Có đức tính nhu hòa, nhẫn nhục, khi chết đi được sinh vào cõi thiện.
 
  • Ý không si mê.
 
Si mê là u mê, không hiểu rõ, không biết đúng sự thật, hiểu biết không đúng chân lý. Si mê là tà kiến.
 
Người không si mê là người phán đoán rành rẽ, nhận định một cách rõ ràng, đúng đắn, không biện minh che đậy sự dốt nát, lầm lạc của mình và cũng không cố chấp vào kiến thức chủ quan của mình.
 
Người không si mê là người sáng suốt, không tin vào những tà thuyết, tà kiến mê tín dị đoan. Người si mê dù có thông minh thì họ vẫn rất cố chấp, bảo thủ, tin vào những tà thuyết, tà kiến.
 
Người si mê không phải là không hiểu biết, mà là hiểu biết không rõ, không đúng cái lý. Họ hiểu qua tâm tham đắm, dính mắc ngũ dục lạc. Họ rất thông minh nhưng u tối. Bởi cái hiểu của họ không làm cho họ an vui, yên ổn.
 
Người không si mê là người có trí tuệ thông minh thấu suốt lý nhân quả, luân hồi, nên không bao giờ tạo tội ác và luôn làm việc thiện. Họ thường tư duy quán xét vạn pháp để phá trừ vô minh, tinh tấn hằng ngày tiến bước trên đường giải thoát nội tâm của mình.
 
Người không si mê thấy biết và thấu suốt 4 chân lý của kiếp người. Biết rõ nơi đến, nơi đi của kiếp người. Biết rõ con người là duyên hợp, các pháp trên thế gian này đều là vô thường, vô ngã, khổ. Biết nhân nào, duyên nào sinh ra con người. Biết địa ngục, thiên đàng ở đâu. Biết các cõi trời, biết rõ ma, thiên vương, quỷ thần. Biết rõ con người có linh hồn hay không. Biết bát chánh đạo và các pháp tu hành giải thoát.
 
Người biết rõ như vậy là người không si mê. Người không thấu rõ những điều này là người si mê, dù họ học cao, có bằng cấp thạc sĩ, tiến sĩ, giáo sư, bác học.
 
Đức Phật xác định có 4 hạng người si mê:
 
a) Người đi đông đi tây, học hỏi hiểu biết nhiều chuyện kim cổ, thời tiết, chính trị, văn học, khoa học, kiến trúc, hội họa, thơ văn… Những người có sự hiểu biết nhưng những sự hiểu biết này làm tâm họ bất an. Đây gọi là phi phạm hạnh, si mê hạng nhất.
 
b) Người y cứ vào kinh sách mà giảng nói ra. Họ thuyết kinh rất hay, giảng rất hay nhưng tâm họ vẫn bất an. Đây gọi là phi phạm hạnh, si mê hạng nhì.
 
c) Người suy luận, lý luận, thuyết pháp theo nguyên tắc tự mình sáng tác mà tâm còn dính đầy danh sắc, tâm luôn bất an. Đây là phi phạm hạnh, si mê hạng ba.
 
d) Người đần độn, ngu si. Là người nói họ không hiểu, hỏi cái này thì đáp cái kia, nói bậy bạ không trúng, nói trườn uốn như con lươn. Tâm họ thường bất an. Đây là phi phạm hạnh, si mê hạng bốn.
 
Để không còn si mê, hành giả cần thực hiện những điều sau: Tìm hiểu chánh pháp, thông hiểu những gì cần thông hiểu. Từ bỏ rượu bia, các chất làm mê mờ tâm trí. Ăn ngủ điều độ, đúng giờ. Tu tập định vô lậu để có tri kiến giải thoát, thấy biết các pháp một cách chân thật. Tu tập định chánh niệm tỉnh giác để có sức tỉnh cao, phá đi các trạng thái buồn ngủ, mê mờ.
 
Kinh thập thiện dạy, người phá trừ được si mê sẽ thành tựu mười công đức: Được ý vui chân thiện và bạn chân thiện. Tin sâu nhân quả, thà bỏ thân mạng chớ không làm điều ác. Chỉ quy y theo Phật, không quy y theo thiên thần ngoại đạo. Tâm được ngay thẳng chánh kiến. Thường sanh lên cõi thiện, khỏi bị đọa ba đường ác. Phước huệ không lường, thường tăng lên mãi. Dứt hẳn đường tà, chăm tu chánh đạo. Không còn lòng chấp ngã, bỏ hết nghiệp ác. Trụ nơi chánh kiến. Khỏi bị nạn dữ.
 
Trên đây là 3 điều thiện của ý. Chúng ta biết rằng hành động của miệng và thân xuất phát từ ý. Nếu ý bất thiện sẽ dẫn đến các hành động kết ác nghiệp là sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ và dẫn dắt con người vào khổ đau. Vì vậy, hãy siêng năng tu tập làm thanh tịnh ý, muội lược tham, sân, si để đón nhận được những lợi ích lớn.
 
Sau đây là những phẩm hạnh, những hành động sống Phật dạy cho người cư sĩ để có một nền tảng vững chắc và biết cách áp dụng thực hiện được thập thiện.
 
  • 6 ác hạnh làm tổn tài, hao của:
 
Đam mê rượu chè, đam mê cờ bạc, sống phóng đãng bừa bãi, say mê kỹ nhạc, kết bạn với người ác, lười biếng.
 
  • 4 hạng oan gia nên tránh:
 
Hạng người vì sợ nên làm thân, hạng nói ngon ngọt xảo trá, hạng dối trá đặt điều, hạng ác hữu ưa uống rượu, đánh bạc, dâm dục, ca múa.
 
  • 4 hạng người cần thân cận:
 
Người thường ngăn mình làm điều quấy, chỉ bày cho mình làm những điều ngay thẳng; người có lòng thương xót, từ mẫn; người biết làm lợi cho người khác, chỉ cho mình làm những điều thiện; người cùng làm việc, cùng tư tưởng, sẵn sàng giúp đỡ mình.
 
  • Nên biết rõ 6 phương:
 
Là các phương Đông, Nam, Tây, Bắc, Dưới, Trên, lần lượt tượng trưng cho cha mẹ, thầy, vợ chồng, bạn bè, tôi tớ làm thuê, người hiền đức. Ở đây Đức Phật dạy cho ta biết cách đối xử, giao tiếp với 6 phương và 6 phương này nên đối xử ngược lại như thế nào để các mối quan hệ được tốt đẹp.
 
  • 4 hạng người sẽ mất phẩm hạnh khi chạy nhảy:
 
Người đứng đầu đất nước, voi ra trận, nhà sư, phụ nữ.
 
  • Người phụ nữ khi về nhà chồng có 10 điều cần hiểu và giữ gìn:
 
Không thuật lại lỗi lầm của cha, mẹ, chồng (đây là lỗi tệ nhất). Không nên thuật lại lời phỉ báng của người ngoài về cha, mẹ, chồng. Chỉ cho mượn những người biết trả lại. Không nên cho mượn những người mượn rồi mà không trả lại. Giúp đỡ những người thân bằng quyến thuộc quá nghèo khổ dù họ có thể trả lại hay không thể trả lại, nếu gia đình chồng đồng ý. Ngồi một cách an vui (khi cha, mẹ chồng đến nên đứng dậy chào). Ăn một cách an vui (không nên ăn trước cha, mẹ chồng). Ngủ một cách an vui (không nên ngủ trước cha, mẹ, chồng). Trông nom giữ gìn lửa (xem cha, mẹ, chồng như lửa, hết sức khéo léo thận trọng). Tôn trọng các vị trời trong nhà (coi cha, mẹ, chồng như trời).
 
  • Duyên và bổn phận:
 
Ta có duyên gặp Phật pháp nhưng phải làm tròn bổn phận mới tu giải thoát được.
 
  • Đoàn kết:
 
Dù là cư sĩ hay tu sĩ, theo các hệ phái khác nhau, nhưng cùng là Phật tử, cùng là những người đang tìm con đường giải thoát thì nên đoàn kết.
 
  • Bốn giới hòa của người cư sĩ:
 
1- 
Khẩu hòa không tranh cãi: về phần miệng nói, bàn luận đều trong tinh thần hòa nhã đạo đức, không được dùng lời nói lớn tiếng tranh đua, hoặc dùng lời nặng nhẹ chỉ trích nhau.
 
2-  Ý hòa cùng vui: phải có tâm ý vui hòa, không nên có tâm ý ngang ngạnh, chống đối thù hằn nhau, nên vui theo tâm ý người, làm theo ý của người khác nhưng không bị lôi cuốn vào ác pháp, đó là để rèn luyện hạnh nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng.

3- Có ý kiến hay cùng giảng giải cho nhau nghe: luôn luôn hòa hợp mọi ý kiến với nhau, đem cái hay, lợi ích giảng giải cho nhau hiểu cùng tu, cùng học.

4- Giới hòa đồng tu: lấy nội quy làm khuôn phép cùng sống như nước với sữa, cùng khích lệ, sách tấn nhau giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào trên bước đường tu tập.
 
  • Ba giới đức nòng cốt của người cư sĩ:
 
1- Nhẫn nhục thấy nhân quả xả tâm: nhẫn nhục là một đức tính hòa hợp rất tốt, người cư sĩ cần nên tu tập rèn luyện để cùng sống trong gia đình và xã hội mà thân tâm được sống yên vui.

2- Tùy thuận không bị lôi cuốn: tùy thuận là một đức tính hòa hợp trong gia đình và xã hội, khiến mình và mọi người được an vui, thanh thản. Vì vậy cần phải cố gắng giữ gìn, tu tập và rèn luyện.

3- Bằng lòng, vui vẻ, hân hoan: bằng lòng là một đức tính buông xả rất tốt mà người cư sĩ cần phải giữ gìn, tu tập và rèn luyện, để cho cuộc sống có thân tâm bình an, thanh thản.
 
  • Biết xấu hổ:
 
Biết xấu hổ với những điều làm sơ suất tạo ra cảnh khổ mình, khổ người và chúng sinh.
 
Tự thẹn với những việc làm ác. Người biết tự thẹn là người biết cố gắng khắc phục mình, biết sửa lỗi mình, biết chiến đấu lại tâm mình. Người không biết tự thẹn là người không biết xấu hổ với mình, không biết cố gắng khắc phục tâm mình, không biết sửa lỗi mình và cũng không biết chiến đấu lại tâm ác của mình, để rồi phải chịu suốt một đời khổ đau và tiếp tục trong muôn đời khổ đau.
 
  • Người cư sĩ cần cảnh giác khi có 3 vị thiên sứ đến báo:
 
3 vị thiên sứ đó là: Người già tóc bạc răng rụng. Người bệnh đau đớn nhức nhối. Người chết sình trương hôi thối.
 
3 vị sứ giả này nhắc cho chúng ta biết thời gian không chờ một ai, già khổ, bệnh khổ, chết khổ có thể đến bất cứ lúc nào. Những nỗi khổ này không phải do ai làm cho chúng ta, mà chính chúng ta đã tạo ra nghiệp ác nên phải đón nhận. Vì vậy, phải biết dành thời gian tu tập thập thiện để chấm dứt khổ.
 
“Tấc bóng thời gian một tấc vàng
Tấc vàng dù mất còn tìm được
Tấc bóng thời gian khó hỏi han.”
 
“Người ngu si mê muội
Tuy đã thấy thiên sứ
Tâm vẫn còn buông lung
Sanh vào chốn ti tiện
Thì ôm lòng sợ hãi.
 
Nếu người có trí tuệ
Khi thấy thiên sứ đến
Liền gần pháp thánh hiền
Tâm không còn buông lung
Thấy thọ sanh thì sợ
Vì đó già, bệnh, chết.
 
Không thọ sanh giải thoát
Hết sanh, già, bệnh, chết
Người đó được an ổn
Hiện tại sống vô vi
Đã vượt qua lo sợ
Chắc chắn đạt niết bàn.”
 
Trên đây là những ghi chép tóm lược về pháp môn thập thiện. Để hiểu rõ ràng hơn, mời các bạn chuyển qua Phần 2 nghe các bài giảng của Trưởng Lão Thích Thông Lạc về pháp môn này và triển khai về các giới đức, giới hạnh cần có của người cư sĩ tại gia.
 
Thập thiện là một pháp môn tuyệt vời, chỉ cho chúng ta thấy rõ ràng pháp thiện là gì, pháp ác là gì. Từ đó, ta ngăn 3 nơi thân, miệng, ý làm 10 điều ác, thực hiện sống với 10 điều lành. Nhờ vậy ta trở thành một con người thiện với đầy đủ phước báu an vui hạnh phúc. Người sơ cơ mới biết tu hành cũng có thể tu thập thiện, dần dần tiến đến đạt được kết quả giải thoát vĩ đại. Các bậc Thánh thoát khỏi vòng sinh tử cũng đều phải tu thập thiện và lấy thập thiện làm căn bản cho sự tu hành của mình. Thập thiện chính là nguồn gốc căn bản giải thoát của đạo Phật. Các bạn nên chú ý nghiên cứu và thực hành pháp môn này.
 
Đến đây, chúng ta đã thông hiểu về thập thiện, nhưng làm cách nào thực hiện được 10 điều lành, từ bỏ được 10 điều ác, để 3 nơi ý, miệng, thân được thanh tịnh? Muốn làm được như vậy, chúng ta phải trau dồi 4 vô lượng tâm từ, bi, hỷ, xả, thực hành các pháp: như lý tác ý, định vô lậu, định chánh niệm tỉnh giác.
 

► 4 vô lượng tâm

 
Bốn vô lượng tâm là pháp giúp ngăn diệt ác pháp, hành giả nên trau dồi hằng ngày.
 
  • Tâm từ được trau dồi sẽ diệt sân hận.
 
  • Tâm bi được trau dồi sẽ diệt tính hung bạo.
 
  • Tâm hỷ được trau dồi sẽ diệt lòng ganh tị.
 
  • Tâm xả được trau dồi sẽ diệt hận thù.
 
Bốn vô lượng tâm là bốn tâm vô cùng rộng lớn, thoát ra khỏi mọi sự ràng buộc các dây mơ rễ má của mọi tâm lý tình cảm thương ghét, giận hờn, tị hiềm, kiêu căng, nghi ngờ, ngã mạn của phàm phu, phá vỡ tà kiến, thân kiến, chấp kiến trước mọi trí tuệ mê mờ, lầm lạc. Vô lượng tâm còn có nghĩa là tâm bình đẳng, tâm này tự nhiên không so đo cao thấp, hơn kém, mà phổ biến, ban rải mọi nơi, mọi chốn, không giới hạn. Do trau dồi tâm bình đẳng này làm lợi ích cho vô lượng chúng sinh thoát khổ, nên tâm này có công năng mang đến cho con người vô lượng phước báu. 4 tâm vô lượng này không những làm lợi ích cho chúng sinh an lành, hạnh phúc, mà còn ban rải cho mọi nhà, mọi đất nước và cả thế giới trật tự, an ninh, thanh bình, không chiến tranh. Vô lượng gồm có 5 nghĩa:
 
  • Vô lượng nhân lành.
 
  • Vô lượng quả đẹp.
 
  • Vô lượng chúng sinh (cả người và vật).
 
  • Vô lượng thế giới (không gian).
 
  • Vô lượng đời kiếp (thời gian).
 
Thành phần và hành tướng của 4 tâm vô lượng là: từ vô lượng, bi vô lượng, hỷ vô lượng, xả vô lượng.
 
Từ vô lượng tâm:
 
Từ vô lượng là lòng mến thương của chúng ta vô cùng vô tận đối với tất cả chúng sinh, từ cây cỏ thảo mộc cho đến loài động vật, dù con vật hung dữ chúng ta cũng ban rải lòng từ, tránh vô tình gây đau khổ cho chúng sinh, thương mến đem lại cho chúng sinh cái vui chân thật, cái vui do chính lòng từ mang đến, làm cho vạn vật vui mừng, cỏ cây tươi tốt, trong đó có chính mình.
 
Tâm từ đối với nhân, áp dụng khi con người, vạn vật, cây cỏ đang bình thường, khỏe mạnh, yên ổn. Tâm bi đối với quả, áp dụng khi có sự tổn thương, đau khổ, sợ hãi, chết chóc.
 
Trong đời sống của chúng ta có 2 cái vui:
 
  • Cái vui bền bỉ chân thật: người vui, mình vui, tất cả chúng sinh, cỏ cây cùng vui tươi, đó là tâm từ, bi, hỷ, xả chúng ta ban rải khắp muôn loài vạn vật. Cái vui này không ồn náo sôi nổi mà nhẹ nhàng thầm lặng. Chúng ta không còn cảm thấy cô đơn nữa bởi tâm ta đã phủ trùm lên, hòa vào niềm vui chung với vạn vật muôn loài.
 
  • Cái vui ngắn ngủi giả tạm: bị phiền não chi phối khi tham, sân, si, mạn, nghi đòi hỏi, được thì thỏa mãn, vui, ngược lại là buồn khổ. Đây là vui theo dục lạc, mà dục lạc không bao giờ có thể thỏa mãn hoàn toàn.
 
Muốn có cái vui bền bỉ chân thật cần trau dồi thân và tâm trong 3 hành động: thân hành, miệng hành, ý hành. Thân hành có 2: chân hành, tay hành. Miệng hành có 2: ăn, nói. Ý hành có 3: ý thiện, ý ác, ý không thiện không ác. Lấy bốn vô lượng tâm trau dồi hành động ở 3 nơi này.
 
  • Trau dồi từ tâm nơi thân hành:
 
Hướng tâm khi bước đi “chúng sinh quanh ta rất nhiều, dưới bước chân ta đi có nhiều loài côn trùng nhỏ nhít và cỏ cây yếu mềm, ta đừng dẫm lên chúng để chúng không bị chết chóc, héo úa”. Vừa bước đi nhẹ nhàng vừa hướng tâm như vậy, lâu ngày huân tập trong tâm ta thành một thói quen thương xót chúng sinh, thấm nhuần tình thương yêu chúng sinh rộng lớn bao la.
 
Tương tự, khi thực hiện các hành động đứng, nằm, ngồi và các hành động của tay như cầm, nắm, bắt cũng thường hướng tâm như vậy. Câu hướng tâm chỉ là gợi ý, hành giả tự điều chỉnh cho phù hợp với bản thân mình.
 
Nhờ tu tập tâm từ, dần dần ta sẽ không còn sự sợ hãi.
 
  • Trau dồi từ tâm nơi miệng hành:
 
Khi ăn uống coi chừng trong thực phẩm có côn trùng nhỏ không, hướng tâm trước khi ăn “khi nhai nuốt ăn uống tâm ta phải thương xót chúng sinh, lỡ nhai nuốt ăn vào bụng làm cho chúng sinh đau khổ thiệt hại là một tội lỗi lớn”.
 
Miệng khi nói cần cẩn thận. Bởi lời nói thường đi trước cái ý, khi đụng chuyện lời nói phóng ra lia lịa theo cái tư tưởng, cái ngã chấp của mình, thiếu sự suy tư cẩn trọng, đến lúc nhận ra thì hối không kịp bởi lời đã nói ra. Vì vậy ta thường hướng tâm trước khi nói “ta muốn nói một điều gì, ta cần phải cân nhắc kỹ lưỡng, suy tư cho chín chắn rồi mới nói ra” để không làm khổ mình, khổ người.
 
Khi rảnh rang tự nhắc mình “ta nói phải giữ gìn lời cho đúng đắn, không được nói dối, nói oan ức làm cho khổ người”, hay nhắc câu “làm người thì ta phải thương người, người đau khổ cũng như mình đau khổ” để lời ta nói ra không làm khổ người.
 
Ai là người nhiều chuyện thì tự nhắc “ta là người nhiều chuyện, lắm mồm, từ đây phải sống trong trầm lặng, không được nhiều chuyện lắm mồm nữa.”
 
Tùy vào đặc tướng của từng người và tùy vào từng hoàn cảnh cụ thể, mỗi người tự soạn ra câu hướng tâm tác ý phù hợp với mình và sử dụng tùy thời.
 
  • Trau dồi từ tâm nơi ý hành:
 
Chúng ta phải tư duy “thân tất cả chúng sinh như thân mình, thường đau khổ, thường đói khát, mình hãy thương yêu và chăm sóc chúng như chính thân mình, như con mình”. Phải nhắc cái ý chúng ta thường tư duy những điều đau khổ của chúng sinh như chính sự đau khổ của mình, chăm sóc sự đau khổ của chúng sinh cũng như chăm sóc con mình vậy.
 
Bởi vì hành động của miệng và thân đều xuất phát từ ý, nên chúng ta phải trau dồi cái ý thật cẩn thận. Khi ý thấm nhuần thì những hàng động của miệng và thân đều toát ra lòng yêu thương chân thật tận nơi đáy lòng của mình.
 
Hằng ngày chúng ta tập dùng ý để quan sát, theo dõi từng hành động sống của loài vật. Ví dụ chúng ta nhìn một đoàn kiến đi ngang qua, ta thấy nó có những sự buồn, vui, đau khổ lẫn lộn trong đó. Rồi có những sự tấn công của những con vật khác vào trong đoàn kiến này, chúng bảo vệ bằng cách nào. Thấy cuộc sống của chúng như vậy, ta nhìn lại đời mình xem có giống những con vật này không. Từ đó chúng ta mới toát ra những tư tưởng, những sự tư duy thương yêu chân thật muôn loài. Quan sát kỹ lưỡng từng hành động sống của loài vật sẽ cho ta những bài học có giá trị để tu tập bốn vô lượng tâm.
 
Khi đứng trước một cái cây chúng ta nhìn sự sống của nó thế nào. Những làn gió thổi, những hạt sương rơi trên cây đều thấm nhuần sự sống, để chúng ta tỏa lòng từ thương yêu chúng từng chút. Nếu chúng ta không chịu khó quan sát, không chịu khó ý tứ như vậy thì khó mà thông cảm được lòng thương yêu chúng ta đối với chúng. Muốn thực hiện được điều này thì phải cần có thời gian để quan sát, để thấm nhuần từng sự sống của muôn loài.
 
Để trau dồi cái ý thì chúng ta phải siêng năng quan sát mọi vật như vậy. Trong sự quan sát, tư duy sẽ phát sinh sự đồng cảm, thấu hiểu, lòng thương yêu chân thật, tự nhiên ta sẽ trân trọng sự sống của tất cả mọi người, mọi loài vật và cỏ cây. Lòng từ sẽ đem lại cho tâm hồn một sự thanh thản, giải thoát.
 
Bi vô lượng tâm:
 
Bi vô lượng là lòng thương rộng lớn vô bờ bến trước những nỗi đau khổ của chúng sinh. Người có lòng bi thương rộng lớn không thể làm ngơ trước nỗi đau khổ của chúng sinh và luôn luôn quyết tâm để làm những gì dứt trừ sự khổ đau đó. Tuy rằng biết sự đau khổ của thế nhân và chúng sinh đều do nhân quả ác thiện mà sinh khởi, nhưng trước cảnh kêu la thảm khốc đầy đen tối của kiếp người, kiếp chúng sinh, người có lòng bi không thể làm ngơ được. Luôn phải dùng lời an ủi, khuyên bảo, dùng tay xoa dịu nhẹ nhàng những vết thương để làm giảm cơn đau của chúng sinh, của người khác. Đồng thời luôn luôn khuyên chúng sinh đi về nẻo thiện để chấm dứt cảnh khổ, vì nhân ác phải thọ quả khổ, nhân thiện sẽ được hạnh phúc.
 
Hãy thường nhắc nhở những câu sau để trau dồi tâm bi vô lượng: “hãy thương người đang sân”, “hãy thương người đang bệnh”, “hãy thương người đang buồn khổ”, “hãy thương người đang có tai nạn”, “hãy thương người tham lam trộm cắp”, “hãy thương người đang si mê”, “hãy thương người đang tị hiềm”, “hãy thương người đang ngã mạn cống cao”, “hãy thương người tàn tật”, “hãy thương người già yếu vì chính chúng ta ngày nào đó cũng già yếu lọm khọm, đi đứng run rẩy”, “hãy thương tất cả chúng sinh vì chúng sinh hoàn toàn là đau khổ”. Nhờ thương hết tất cả chúng sinh, cây cỏ thảo mộc mà tâm chúng ta luôn luôn thấy thảnh thơi, an vui trong vạn hữu.
 
Hỷ vô lượng tâm:
 
Hỷ là vui mừng. Vì có từ, bi thì mới có hỷ. Biết thương người thì mới có vui, còn không biết thương người thì cái vui của chúng ta là cái vui ích kỷ. Tâm hỷ đối với người thù, kẻ oán, đối với tất cả mọi cái đều vui vẻ thì đó tâm tùy hỷ. Tùy hỷ nghĩa là vui theo. Vui theo có nhiều cách. Vui theo dục lạc, vui theo ác pháp, vui theo các việc lành của người khác.
 
Vui theo ngũ dục lạc (danh, tiền, sắc, ăn, ngủ) là cái vui ngắn ngủi, mê muội. Người phàm phu ngu si mê muội phóng tâm vui theo những vật chất thế gian, trần cảnh, gồm có sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, nó có một sức cám dỗ lôi cuốn con người đi đến chỗ đau khổ bất tận. Dục lạc thế gian ở xa nhìn tưởng hạt kim cương, lại gần là giọt nước mắt.
                                                   
Vui theo ác nghiệp là thấy người sát sinh, uống rượu, trộm cắp, tà dâm, bài bạc, vọng ngữ, hút sách… đã không khuyên can mà lại còn xúi vào vui theo và bằng lòng theo con đường ác đó.
 
Hai loại hỷ trên cũng là hỷ vô lượng tâm, nhưng là hỷ vô lượng tâm dục, tâm ác, mang lại đau khổ, tạo cảnh địa ngục trần gian ngay trong hiện tại, không cần đợi mai sau. Người vô minh mê muội không thể thoát khỏi 2 loại hỷ này. Chúng ta cần trau dồi để từ bỏ 2 loại hỷ này bằng những câu hướng tâm:
 
“Hỷ của dục lạc là tai nạn, là bệnh tật, là khổ đau, ta hãy tránh xa hỷ này”.
 
“Hỷ của dục là ảo giác, không có thật, nó là thuốc độc, là rắn độc giết hại con người, ta hãy tránh xa các loại hỷ này”.
 
“Hỷ vui theo các ác pháp là hỷ tâm vô lượng ác, là làm đau khổ chúng sinh, giết hại chúng sinh, không có lòng từ bi thương xót chúng sinh, ta hãy tránh xa hỷ này, yểm ly hỷ này, từ bỏ hỷ này, xa lìa hỷ này vì hỷ này làm đau khổ chúng sinh, làm sinh ra địa ngục của chúng ta, hãy dứt trừ sự vui theo các ác pháp”.
 
Bây giờ đến hỷ tâm vô lượng giải thoát. Hỷ tâm vô lượng giải thoát là vui theo với việc lành, việc thiện của người khác, đó là vui theo những việc làm nhân từ, phước thiện, thấy người đem của cải ra bố thí ta liền tán thán vui theo, tận tâm giúp đỡ họ trong mọi công việc với lòng hân hoan vui sướng. Sự vui theo này là một bước tiến trên con đường thiện nghiệp. Nếu ta có tiền của, ta sẽ đóng góp vào làm việc công ích cho mọi người. Nếu ta không có tiền của ta hãy lấy công giúp đỡ họ để hoàn thành sự an ủi những nỗi bất hạnh của con người sống trong xã hội.
 
Vì tâm bi vô lượng ta nhận thấy trong xã hội có nhiều người bất hạnh nên lúc nào lòng ta cũng muốn làm từ thiện để ban vui cứu khổ cho mọi người, làm sao cho mọi người an vui no ấm, làm sao cho mọi người thoát khỏi bệnh tật khổ đau. Những hình ảnh đau khổ của con người và chúng sinh khiến cho người có tâm bi vô lượng không thể ngồi yên bằng cách tư duy suông làm sao giảm bớt và xoa dịu vết thương đau của chúng sinh, làm sao đoạn dứt những nỗi đau thương của chúng sinh.
 
Bây giờ chúng ta đã hiểu chúng ta phải làm một cái gì đó để cho tất cả mọi người được an vui hạnh phúc thì không có gì hơn là đem giáo lý nhân quả, đạo đức nhân quả chia sẻ cho từng người, giúp cho từng người hiểu, thì cái này là niềm vui vô lượng không thể kể xiết được.
 
Trau dồi tâm hỷ bằng cách thường như lý tác ý nhắc tâm:
 
“Ta hãy vui mừng theo những ý kiến của người khác để người và mình vui”.
 
“Tính hay khoe khoang cái hay cái giỏi của mình là chướng tâm, là ngại đạo, phải từ bỏ, phải xa lìa thói xấu này”.
 
“Phải biết vui hòa trong mọi công việc của mọi người, lấy việc người làm việc mình”.
 
“Trong vạn vật đều có sự vui chan hòa, ta hãy theo đó mà hòa mình trong sự vui, nếu ta làm một điều không vui thì ta đã làm buồn khổ muôn loài vạn vật cỏ cây”.
 
Đức Phật xác định có 4 loại hỷ lạc thấp kém, hạ liệt, đó là hỷ do giết hại, ăn thịt chúng sinh, hỷ do trộm cướp, hỷ do nói láo gạt người, nạt nộ người, hỷ do say mê 5 thứ dục lạc sắc, danh, lợi, ăn, ngủ. Đây là 4 thứ hỷ lạc phàm phu đầy đau khổ và tội ác, làm người ta không dứt cuộc đời ra được.
 
Người dứt bỏ tâm ham muốn được 4 loại hỷ lạc, đó là hỷ do ly dục sinh, và cao hơn là hỷ do định sinh. Những loại hỷ lạc này không kèm theo khổ đau, nó chân thật, đưa chúng ta đến giác ngộ và niết bàn, tâm hồn an tịnh.
 
Xả vô lượng tâm:
 
Xả là bỏ, không dùng, không chấp, dẹp qua một bên. Xả vô lượng là bỏ tất cả, không còn một vật gì, một đối tượng, một hoàn cảnh hay một chướng ngại nào còn sót trong tâm. Xả vô lượng tâm nghĩa là từ bỏ, từ giã, xa lìa, viễn ly tất cả các pháp thế gian, không còn để pháp nào trói buộc, dính mắc mình hết.
 
Các pháp thế gian là những pháp trói buộc như mạng lưới chằng chịt khó thoát ra. Đó là sắc dục, tiền bạc, của cải, tài sản, vật chất lớn, vật chất nhỏ, nhà cửa, ruộng vườn, danh thơm, tiếng tốt, tiếng khen, tiếng chê, tiếng mắng, tiếng chửi, thức ăn ngon, thức ăn dở, ngủ nghỉ, anh em bầu bạn, cha mẹ, vợ con, tình thân quyến thuộc, bà con xóm làng, bạn bè gần xa, chùa to tháp lớn, miếu đình, tế tự cúng bái, tụng kệ ca ngâm, hát xướng ngâm vịnh, tủ giường bàn ghế, chén bát ly chậu, máy móc xe cộ, ti vi, radio, tủ lạnh… kinh sách, kiến thức học tập các pháp thế gian, thiên văn địa lý, y học, kiến thức hội họa, toán học, khoa học, kỹ nghệ học, kinh tế học, chính trị học, quân sự… dịch số, bói toán, các nghề nghiệp buôn bán, làm ruộng, thợ mộc, thợ may, thợ dệt, đi săn, bắt cá, trồng trọt, thầy thuốc, thầy thông, thầy ký, thầy ngải, thầy bùa, kế toán, thợ máy, thợ điện… tất cả nghề nghiệp sinh sống của con người là các pháp thế gian.
 
Pháp thế gian nhiều không kể hết, vậy mà cái nào cũng dính vào ta, bứt ra rất khó. Chúng ta không xả một lần hết tất cả được. Cho nên phải tuần tự xả từng thứ.
 
Đầu tiên xả bỏ 5 thứ dục lạc gần gũi chúng ta nhất là: sắc dục, tiền bạc, danh tiếng, ăn, ngủ. 5 thứ dục lạc này biến ra vô lượng cái để chúng ta dính mắc.
 
Xả được 5 thứ dục lạc rồi ta mới xả tiếp đến 6 pháp dục lạc thế gian là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Đây là 6 đối tượng của tâm, nó luôn luôn cám dỗ, thu hút chúng ta để phục vụ cho 5 thứ dục lạc ở trên. Sắc là hình ảnh, sắc tướng, đối tượng của sắc là mắt. Thinh là âm thanh, đối tượng của thinh là tai. Hương là hương thơm, đối tượng của hương là mũi. Vị là mùi vị mặn, ngọt, cay, đắng, đối tượng của vị là miệng. Xúc là va chạm, đối tượng của xúc là thân. Pháp là những kiến chấp, những hiểu biết trong đầu chúng ta, đối tượng của pháp là ý.
 
Muốn trau dồi tâm xả vô lượng các pháp thế gian, ta nên lựa một chỗ thanh vắng, tịnh mịch như rừng, gốc cây, hang đá, khe núi, bãi tha ma, lùm cây, bóng mát dưới tán cây, ngoài trời hoặc trong chòi lá. Sau khi ăn uống xong, đợi cơm và thực phẩm tiêu hóa khoảng 2 giờ thì chúng ta hãy ngồi kiết già lưng thẳng tại chỗ nói trên và an trú đặt niệm trước mặt. Các niệm đó là:
 
  • Xả tâm vô lượng sắc dục.
 
  • Xả tâm vô lượng tiền bạc, của báu, vật chất thế gian.
 
  • Xả tâm vô lượng danh.
 
  • Xả tâm vô lượng ăn.
 
  • Xả tâm vô lượng ngủ.
 
Chúng ta đặt từng niệm rồi dùng pháp hướng như lý tác ý để trau dồi. Cụ thể dùng những câu pháp hướng nào, mời các bạn chuyển qua Phần 2 nghe Trưởng Lão giảng. Ngài đã phân tích rất chi tiết, tỉ mỉ, rõ ràng và hướng dẫn cụ thể cách trau dồi 4 tâm vô lượng.
 
Bài kệ sau đây của Trưởng Lão sẽ kết thúc phần 4 vô lượng tâm:
 
“Trau dồi từ tâm tốt
Lòng thương hòa vạn hữu.
Trau dồi bi tâm tốt
Vạn hữu hết điêu linh.
Trau dồi tâm hỷ tốt
Lòng vui khắp muôn loài.
Trau dồi tâm xả tốt
Vạn vật sống an lành.”
 
Đến đây, chúng ta đã được học các thiện pháp Phật dạy để làm một con người thiện, đó là 5 giới, 10 điều lành, 4 vô lượng tâm. Tiếp đến, chúng ta sẽ tìm hiểu các pháp hành nhằm hỗ trợ cho việc thực hiện những thiện pháp này. Ba pháp hành chính chúng ta sẽ tìm hiểu là như lý tác ý, định vô lậu, định chánh niệm tỉnh giác.
 

► Pháp hướng tâm như lý tác ý

 
Pháp hướng tâm (như lý tác ý) là pháp dẫn tâm vào một lý chân chính, lý giải thoát của đạo. Dẫn tâm bằng cách dùng ý thức tác ý ra để nhắc tâm không làm sai, hướng tâm đi vào chỗ giải thoát. Lý chân chính, lý giải thoát của đạo là lý nhân quả, lý vô thường, khổ, vô ngã, lý duyên hợp duyên tan.
 
Ví dụ, khi gặp chuyện gì không như ý, ta nhắc tâm: “Đây là nhân quả, tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự”. Nhờ nhắc tâm cái lý chân thật là lý nhân quả, nên ta không còn buồn khổ hay bực mình nữa, vì ta biết chuyện không như ý này xảy ra là do quy luật nhân quả đang vận hành, trong quá khứ ta từng gieo nhân xấu nên bây giờ quả không như ý mới đến, vậy nên ta vui vẻ chấp nhận.
 
Pháp như lý tác ý dùng trong 2 trường hợp:
 
  • Trường hợp 1 là khi ta gặp đối tượng dục hoặc ác pháp, ta dùng như lý tác ý để hướng tâm vào thiện pháp, vào lý giải thoát, nhờ đó ta không còn dính mắc vào đối tượng, xả ly được dục, ác pháp. Đó là nguyên lý Phật dạy, tác ý một tướng khác thì tướng kia bị diệt. Nếu không hướng tâm vào thiện pháp thì tâm dính mắc vào đối tượng dục, ác pháp, sinh ra khổ.
 
  • Trường hợp 2 là khi ta ở trạng thái bình thường, thỉnh thoảng ta tác ý để nhắc tâm, hướng tâm về thiện pháp, làm cho dục và ác pháp không sinh khởi. Đức Phật dạy: “Có như lý tác ý, lậu hoặc chưa sinh sẽ không sinh, lậu hoặc đã sinh sẽ bị diệt”. Lậu hoặc nghĩa là những đau khổ của thân và tâm.
 
Pháp hướng tâm sẽ có hiệu quả cao khi tu tập thành lực tác ý và hành giả phải thông hiểu về lý giải thoát được dùng trong câu pháp hướng. Như ví dụ ở phần đầu, hành giả phải có trí tuệ hiểu biết về nhân quả thì khi nhắc tâm “đây là nhân quả”, cái trí tuệ hiểu biết về nhân quả mới ngay đó hiện ra làm cho tâm không bị ác pháp chi phối và nhanh chóng trở về trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự. Trí tuệ thông hiểu về các lý giải thoát sẽ có được nhờ tu tập định vô lậu.
 
Các tác dụng của pháp hướng tâm:
 
  • Giúp cho trí tuệ bén nhạy nhanh chóng trước các pháp ác.
 
  • Giúp cho tâm tạo ra một năng lực siêu việt không thể nghĩ lường.
 
Thường xuyên hướng tâm sẽ tạo thành một cái ý thức lực rất mạnh.
 
  • Pháp hướng tâm là phương cách dẫn tâm vào chỗ giải thoát.
 
  • Pháp hướng tâm còn gọi là pháp huấn luyện tâm.
 
Huấn luyện tâm giống như một người đang huấn luyện voi, rất cần sự kiên trì và thiện xảo, khéo léo, lúc thì dùng câu tác ý nhẹ nhàng, ngọt ngào vuốt ve, khi thì tác ý mạnh mẽ, cứng rắn. Tâm được khéo huấn luyện thì khi cần ta chỉ nhắc tâm một câu là tâm thực hiện theo ngay liền.
 
Vì mỗi người có một đặc tướng khác nhau nên hành giả phải tự nghĩ ra câu tác ý cho phù hợp với bản thân mình thì tác ý mới có hiệu quả. Những câu tác ý của người khác chỉ để tham khảo.
 
Câu pháp hướng nên ngắn gọn, đầy đủ ý nghĩa và chỉ thẳng mục đích của nó, giải quyết tâm trạng đang vướng mắc cần phải xả ly, từ bỏ trong pháp đang tu hành. Chọn câu pháp hướng như một lệnh truyền thì sẽ có hiệu quả, còn nếu câu pháp hướng tâm dài quá sẽ mất ý nghĩa truyền lệnh mạnh mẽ, do đó sẽ không có hiệu quả.
 
Trong một thời chỉ nên dùng 1 câu pháp hướng thì sẽ có hiệu quả hơn dùng nhiều câu. Có nghĩa là ở quãng thời gian đó ta đang tu pháp nào, giai đoạn nào thì nên chọn câu pháp hướng tâm ở giai đoạn đó, pháp môn đó cho phù hợp.
 
Pháp hướng tâm còn một cách sử dụng khác, đó là tác ý nhắc ngay liền trước một hành động ta định làm để ta có sự tỉnh thức, khéo léo, thiện xảo trong hành động đó. Tác ý thường sử dụng khi tu tập định chánh niệm tỉnh giác.
 
Người mới tu chỉ được dùng pháp hướng tâm để ly dục, ly ác pháp. Khi nào tâm thanh tịnh, tức là tâm hết tham, sân, si, mạn, nghi thì mới được dùng pháp hướng tâm nhập định, tịnh chỉ tầm tứ, gom tâm, tịnh chỉ tưởng thức, tịnh chỉ hơi thở, tịnh chỉ âm thanh, tịnh chỉ thọ… Khi tâm chưa hết tham, sân, si, mạn, nghi mà dùng pháp hướng tâm tịnh chỉ là nguy hiểm cho tính mạng, làm rối loạn cơ thể, cần nên tránh.
 
Để hiểu rõ hơn về pháp như lý tác ý, mời các bạn chuyển qua Phần 2 nghe các bài giảng của Trưởng Lão Thích Thông Lạc về pháp môn này. Bây giờ, chúng ta sẽ tìm hiểu pháp hành quan trọng nhất giúp chúng ta có sự hiểu biết để xả tâm, ly dục ly ác pháp.
 

3) Định vô lậu, triển khai tri kiến giải thoát

 
Định vô lậu là phương pháp triển khai sự hiểu biết thông qua quá trình tư duy, suy nghĩ, quán xét để làm cho hiểu một cách đúng đắn, làm cho thấm nhuần. Nhờ sự hiểu biết đó, khi ác pháp tác động đến là ta hiểu ngay liền và xả được tâm, tâm được an ổn, không còn phiền não, tham muốn, giận hờn, si mê, đau khổ. Tức là tâm được vô lậu. Nên phương pháp triển khai sự hiểu biết này gọi là pháp tu định vô lậu.
 
Chúng ta thấy được lợi ích rất lớn của pháp định vô lậu khi đánh thẳng vào sự vô minh để giải trừ khổ đau. Các thiện pháp, giới luật đức hạnh giúp chúng ta biết sống như thế nào cho đúng, sống không tạo ra đau khổ. Còn định vô lậu giúp chúng ta có cái hiểu đúng về bản chất chân thật của vạn pháp, nhờ vậy sự lầm chấp, tham đắm không còn, nghĩa là ngay đó ta hết khổ.
 
Sự tu tập theo chánh pháp thật ra chỉ có vậy. Học cách sống trong thiện pháp và triển khai trí tuệ để thấy biết các pháp một cách chân thật. Nhắm đúng trọng tâm này, hành giả không phải tu quá nhiều mà vẫn đạt được sự giải thoát thiết thực ngay trong đời sống hiện tại.
                                                   

► Cách thực hành định vô lậu

 
Hành giả ngồi yên lặng một chỗ (ngồi kiết già, ngồi bán già lưng thẳng, ngồi xếp bằng, ngồi dựa lưng, hay ngồi trên ghế thường), tỉnh táo đặt niệm trước mặt rồi suy nghĩ, tư duy, quán xét về niệm đó. Các đề tài để đặt niệm là nhân quả, vô thường, lý duyên hợp, khổ… Hành giả chọn một đề tài rồi tự mình triển khai cái hiểu biết của mình ra, dựa trên kinh nghiệm của bản thân và những tri kiến học được, quán đi quán lại, quán rất nhiều lần làm cho thấm nhuần cái đề tài đó.
 
Ban đêm hành giả chọn giờ yên tịnh để tu tập, hoặc trong ngày có nhiều thời gian thì có thể thực hành nhiều lần. Mỗi lần tư duy quán xét là một lần hành giả hiểu rõ hơn. Càng chịu khó quán xét thì tri kiến càng vững chắc, sự xả tâm càng tốt. Hôm nay tu thì ngày mai đã thấy tâm mình thay đổi, bớt dính mắc, bớt buồn khổ. Tiếp tục kiên trì tu tập ngày qua ngày, một lúc nào đó tri kiến giải thoát phóng ra, hành giả sẽ có một trí tuệ siêu việt giúp quét sạch các lậu hoặc trong tâm, khi có đối tượng (dục, ác pháp) xảy đến thì tâm an ổn, giải thoát ngay liền, không còn tham, sân, si trong đối tượng đó nữa.
 
Thời gian đầu tu tập, hành giả nên thường xuyên đọc kinh sách, nghe Trưởng Lão giảng để có sự hiểu biết, mượn tri kiến của Thầy để tư duy, quán xét. Sau thời gian tu tập, tri kiến giải thoát xuất hiện, hành giả tự có tri kiến của riêng mình để đối trị dục và ác pháp.
 
Trong quá trình tu tập, quan sát thực tế là một yếu tố cần thiết để hành giả có cơ sở đặt niệm quán xét. Khi xưa Phật dạy quán thân bất tịnh bằng cách vào nghĩa địa, vào rừng quan sát thi thể người chết đang phân hủy, sau đó mới về đặt niệm thân bất tịnh để quán xét. Vì vậy, hành giả đang quán xét thực phẩm bất tịnh thì nên quan sát sự bất tịnh của thực phẩm để từ ngày này qua ngày khác. Đang quán xét về khổ thì nên quan sát thật kỹ những cái khổ mình đang gặp phải, hay quan sát cảnh khổ của người đang bệnh, người già yếu, người nghèo khổ thiếu thốn…
 
Trong các đề tài định vô lậu, có 2 đề tài nếu thường được triển khai tri kiến hằng ngày sẽ giúp hành giả buông xả dục và ác pháp nhiều nhất, nhanh chóng có được sự an ổn, đó là đề tài nhân quả và đề tài vô thường.
 

► Quán xét về nhân quả

 
Nhân quả là một đạo luật chi phối sự vận hành của vạn vật trong vũ trụ, trong đó có con người, nên chúng ta phải hiểu về nó. “Nhân” là hành động, “quả” là kết quả của hành động. Hành động như thế nào sẽ tạo ra nghiệp tương ứng và dẫn đến kết quả như thế nấy. Hành ác thì tạo ra nghiệp ác, đưa đến kết quả khổ đau, phiền não; hành thiện thì tạo ra nghiệp thiện, đưa đến kết quả hạnh phúc, an vui. Một điều rất quan trọng mọi người cần biết là nhân quả không cố định, nó có thể thay đổi. Vì nhân quả thay đổi được nên Phật dạy con người dùng thiện chuyển hóa ác để hết khổ. Thông hiểu về nhân quả là chúng ta có sự hiểu biết để thoát khổ.
 
Nhân quả có nhiều khía cạnh để tìm hiểu và triển khai tri kiến, hành giả nên đi từng bước, từ nhân quả thảo mộc, nhân quả thời tiết, đến nhân quả con người, động vật. Triển khai quán xét để thấy được đường đi của nhân quả, nhân quả con người qua thân hành, khẩu hành, ý hành, qua các góc độ thời gian quá khứ, hiện tại, tương lai. Từ đó, hành giả có đủ hiểu biết để thực hiện áp dụng các thiện pháp 4 vô lượng tâm, 5 giới, 10 điều lành vào cuộc sống.
 
Muốn có tri kiến về nhân quả và biết cách triển khai tư duy quán xét một cách đầy đủ, chi tiết, mời các bạn qua Phần 2 nghe các bài giảng của Trưởng Lão về chánh kiến và nhân quả. Dưới đây là vài gợi ý sơ lược để các bạn tham khảo.
 
- Nhân quả thảo mộc:
 
Triển khai tri kiến từ nhân quả của loài cỏ cây giúp chúng ta có cái nhìn rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu, bởi nhân quả con người có những diễn biến trừu tượng mà ý thức khó lòng hiểu được, nếu cố hiểu bằng cách tưởng tượng thì đi đến sai lạc.
 
Đặt niệm nhân quả thảo mộc, hành giả tư duy quán xét có phải ta trồng hạt gì sẽ cho ra quả đó? Trồng nhãn thì được quả ngọt. Trồng ớt thì được quả cay. Từ đó rút ra mối tương quan giữa hành động và kết quả của hành động:
 
Hành ác sẽ đưa đến quả ác. Nếu hiện tại ta đang gặp quả ác thì đó là do trước đây ta từng gieo hành ác.
 
Hành thiện sẽ đưa đến quả thiện. Nếu hiện tại ta đang gặp quả thiện thì đó là do trước đây ta từng gieo hành thiện.
 
Hành giả nên quán đi quán lại điều này cho thật hiểu, thật thấm nhuần.
 
- Thân nhân quả:
 
Hành giả đặt niệm thân nhân quả để tư duy quán xét, cái thân này từ đâu sinh ra, bị nhân quả chi phối như thế nào, chết đi về đâu?
 
Thân người từ nhân quả sinh ra, do nghiệp lực thiện ác vận hành theo quy luật nhân quả thu hút 5 uẩn tạo thành. Tùy theo nghiệp lực thiện ác đó như thế nào mà sinh ra con người như thế nấy. Hình dáng xấu hay đẹp, thông minh hay kém trí tuệ, nhiều bệnh hay ít bệnh, sinh ra trong gia đình giàu có hay nghèo khổ, có nhiều quyền lực hay ít quyền lực, sống thọ hay yểu tử… Hành giả quán xét xem do huân tập những nghiệp thiện gì, nghiệp ác gì, mà tạo nên những sự khác biệt như vậy?
 
Đó là khi các duyên hợp lại thì tạo thành thân người, còn khi duyên tan, cái chết xảy đến, thân 5 uẩn tan rã hoàn toàn. Thứ còn lại duy nhất là khối nghiệp lực thiện ác, nó tiếp tục tương ưng với sự thiện ác trong môi trường sống để tạo thành một cái thân mới. Vậy cái thân này là thân nhân quả chứ đâu phải của ta, nó do các duyên hợp lại mà thành để trả nhân quả thiện ác, khi hết duyên là nó tan hoại.
 
Hành giả tư duy để phá chấp thân này là của ta. Nếu đúng thân là của ta thì ta phải sai bảo nó được chứ? Nhưng khi thân đau, ta bảo nó đừng đau mà nó có nghe không? Khi giận hờn, ta bảo đừng giận hờn, nó có nghe không? Khi nó già, bệnh, chết, ta bảo đừng già, đừng bệnh, đừng chết nó có nghe không? Từ khi sinh ra ta không bảo mà cái thân nó tự thở, tế bào tự hoạt động, các cơ quan tự vận hành theo chức năng của nó.
 
Vậy rõ ràng cái thân này không phải của ta, mà là của nhân quả tạo thành, hoạt động theo sự chi phối của nhân quả. Nó xấu hay đẹp, giàu hay nghèo, sướng hay khổ đều do nghiệp thiện ác vận hành theo luật nhân quả tạo nên. Vì vậy, Đức Phật mới dạy con người đừng tạo nhân quả ác, mà hãy tạo nhân quả thiện thì sẽ được hạnh phúc, an vui. Biết thân không phải của ta nhưng ta mượn nó để có cái biết, có ý thức phân biệt được thiện, ác. Từ đó ta dùng pháp Phật tu tập ngăn diệt những điều ác, tăng trưởng những điều thiện, dần dần hóa giải hết nghiệp ác, còn lại nghiệp toàn thiện. Mượn cái thân như vậy là mượn đúng mục đích, giúp đời ta giải thoát hết khổ đau.
 
- Nhân quả con người qua thân hành, khẩu hành, ý hành:
 
Từ quán xét thân nhân quả, ta biết thân này do huân tập nghiệp thiện, ác mà tạo thành theo quy luật nhân quả. Nhưng khối nghiệp đó không cố định, bởi khi sinh ra chúng ta sống và tiếp tục tạo ra các hành động thiện, ác vun bồi cho khối nghiệp đó. Hành động thiện, ác được tạo ra từ 3 nơi là thân, khẩu, ý.
 
Vì vậy, hành giả đặt niệm nhân quả con người qua thân hành, khẩu hành, ý hành để quán xét, xem hành động nào là thiện, hành động nào là ác, những hành động đó dẫn tới kết quả gì?
 
Phật dạy thân con người có 3 hành động thiện, ngược lại là 3 hành động ác, đó là không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm. Khẩu có 4 hành động thiện, ngược lại là 4 hành động ác, đó là không nói dối, không nói thêu dệt, không nói lật lọng, không nói hung ác. Ý có 3 hành động thiện, ngược lại là 3 hành động ác, đó là không tham lam, không sân hận, không si mê. Tổng cộng thân, miệng, ý của con người có 10 hành động thiện gốc và 10 hành động ác gốc, từ 10 cái gốc này sinh ra vô số những điều thiện hay ác khác.
 
Hành giả tư duy quán xét từng điều thiện, từng điều ác gốc theo những tri kiến đã học được để hiểu thấu suốt và thấm nhuần. Sau đó áp dụng vào đời sống thực tế, xem những việc mình đang làm, sẽ làm, nó nằm trong 10 điều lành hay 10 điều ác. Nếu nằm trong 10 điều ác thì ngăn và diệt. Nếu nằm trong 10 điều lành thì cho nó sinh khởi và tăng trưởng.
 
Hiểu biết về nhân quả sẽ giúp chúng ta thoát khổ ngay liền. Sở dĩ khi gặp chuyện chúng ta buồn tủi, bực mình, khổ sở vì cho rằng khổ này do người khác gây ra cho mình, hay nghĩ đây là chuyện bất công trên trời rơi xuống. Suy nghĩ đó làm đầu óc chúng ta vướng mắc hoài trong những tà niệm sân hận, phiền não, không thể thoát ra. Nhưng khi có sự hiểu biết về nhân quả, hiểu được mối tương quan giữa hành động và kết quả của hành động, thì khi chuyện xảy đến ta hiểu ngay rằng đây là quả của hành động ác ta từng gieo trước đây. Rõ ràng là như vậy, không gieo nhân thì không thể có quả. Thôi ta đã làm thì nay vui vẻ nhận quả, đây là sự công bằng, đúng với lý tự nhiên. Đó, chúng ta chỉ cần nghĩ như vậy và hướng tâm tác ý “đây là nhân quả, tâm bất động thanh thản, an lạc, vô sự” là tâm được an ổn ngay liền. Sự hiểu biết về nhân quả đã giúp chúng ta thoát ra khỏi các tà niệm, bình an chấp nhận sự việc và không đổ sự tức giận lên người khác.
 
- Nhân quả cuộc đời mình và người thân:
 
Bởi vì sinh ra đời là ta sống chung đụng với nhiều người xung quanh, nên quán xét về cuộc đời mình và người thân giúp làm thấu rõ đường đi của nhân quả.
 
Hành giả đặt niệm cuộc đời mình và cuộc đời người thân xung quanh để quán xét. Suy tư cuộc sống của mình khi sống với cha mẹ, anh chị em, bà con ruột thịt, rồi khi có vợ chồng, con cái, xét qua nhân quả khổ vui, giận hờn, thương ghét, phơi bày ra tất cả để thấy sự vui sự khổ, mồ hôi nước mắt trong cuộc sống của mình do nghiệp nhân quả tạo nên.
 
Trên đây là sơ lược các bước triển khai tri kiến về đề tài nhân quả. Một người càng hiểu biết nhân quả sâu sắc bao nhiêu thì sự giải thoát càng rõ nét bấy nhiêu. Vì vậy, hành giả nên thường xuyên quán xét nhân quả hằng ngày, làm cho sự hiểu biết nhân quả trở nên thông suốt, thấm nhuần, rồi mang sự hiểu biết đó áp dụng vào thực hiện sống đúng 5 giới, 10 điều lành. Cuộc sống của hành giả sẽ được an vui, hạnh phúc nhờ lòng tin vào nhân quả, luôn luôn sống trong nhân quả thiện. Lỡ khi có ác pháp tác động, hay gặp bất cứ chuyện gì trái ý nghịch lòng xảy đến, hành giả chỉ cần tác ý “đây là nhân quả, tâm bất động thanh thản, an lạc, vô sự” là tâm được an ổn ngay liền. Đó là lợi ích giải thoát rất lớn, thiết thực ngay trong hiện tại của pháp Phật mà những người chịu tìm hiểu và thực hành sẽ được hưởng.
 

► Quán xét về vô thường

         
Vô thường có nghĩa là không thường hằng, luôn biến đổi theo thời gian, không ở yên một trạng thái mãi mãi. Vạn pháp trong vũ trụ này đều vô thường, vì mọi thứ đều do 12 nhân duyên hợp lại mà thành theo quy luật nhân quả. Khi 12 nhân duyên tan rã thì mọi thứ trở về không, chúng ta có muốn chúng thường hằng, không biến dịch cũng không thể được.
 
Con người khổ vì không hiểu biết các pháp vô thường. Mọi người đều tin rằng thân tâm, danh tiếng, tài sản vật chất, các pháp thế gian là có thật và thường hằng. Nên khi sự vô thường, sự biến đổi xảy đến thì ưu bi, sầu khổ, buồn tủi. Ngược lại, một người thấu hiểu các pháp vô thường sẽ không còn chấp ngã, không còn dính mắc, tham đắm bất cứ một vật gì, nên người đó được giải thoát hoàn toàn.
 
Nhiều khi chúng ta nghe giảng về vô thường và cảm thấy mình hiểu biết về nó, nhưng khi xả bỏ một vật gì thì thấy tiếc, hay khi vô thường xảy đến thì buồn khổ. Đó là vì chúng ta chỉ hiểu trên bề mặt chứ chưa chứng được lý vô thường. Hiểu biết trên bề mặt là hiểu biết hời hợt, chỉ nhận ra một vài phần của sự vật, hiện tượng là vô thường, phần còn lại hầu hết vẫn thấy nó là thường hằng, nên vẫn dính mắc, chấp ngã.
 
Vì vậy, chúng ta cần triển khai tư duy quán xét cho đến khi nào thấy những thứ thường hằng trở thành vô thường, quán đi quán lại cho thật thấm nhuần. Khi chứng được lý vô thường, hành giả không còn tham đắm, chấp trước bất kỳ một pháp gì trong thế gian. Mọi tham muốn, ưu tư, sợ hãi, cảm thọ đều được buông xả sạch và tâm trở nên bất động. Tức là hành giả đã ly được dục và ác pháp, hoàn thành mục tiêu tu tập giai đoạn một mà không cần phải tu tập thêm gì nữa.
 
Quán xét về vô thường có thể chia thành 2 đề tài nhỏ hơn, là quán thân vô thường và quán các pháp vô thường. Các bạn nên tham khảo những bài giảng của Trưởng Lão ở Phần 2 về vô thường, 12 nhân duyên để có thêm những tri kiến cần thiết cho quá trình tư duy quán xét. Dưới đây là một vài tri kiến để các bạn tham khảo.
 
- Thân vô thường:
 
Hành giả đặt niệm thân vô thường trước mặt để quán xét. Thân này do nghiệp lực thiện ác thu hút 5 uẩn hợp lại mà thành theo quy luật nhân quả. Năm uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Khi ta chết 5 uẩn tan rã hoàn toàn, không còn lại một chút xíu gì, khi đó khối nghiệp lực thiện ác ta đã huân tập tiếp tục tương ưng với sự thiện ác trong môi trường sống để tạo thành một cái thân mới. Như vậy thân này không thường hằng và không phải của ta, nó chỉ do các duyên hợp lại mà thành để trả nhân quả thiện ác, khi hết duyên là nó tan hoại.
 
Hành giả tư duy về sự biến đổi của cái thân này theo thời gian, khi ta mới sinh ra, lớn lên, trưởng thành, già đi. Thân này có giữ mãi một hình dạng không hay thay đổi như thế nào? Thân này có trẻ mãi không hay lão hóa dần theo thời gian? Thân này có khỏe mạnh mãi không hay lúc khỏe lúc lại ốm yếu, mệt mỏi, lúc thì đau nhức chỗ nọ chỗ kia, lúc lại bệnh tật, ngứa ngáy, nóng lạnh. Thân này có tồn tại mãi không hay sẽ đi đến hoại diệt? Từ xưa đến nay có những người, những tôn giáo luyện thuốc trường sinh bất tử, mong muốn sống lâu không chết, nhưng có ai làm được không? Có phải đấy chỉ là ảo tưởng? Bản thân ta cũng như tất cả mọi người, có ai thoát khỏi những sự biến đổi này không?
 
Các kiến thức về khoa học, y học cũng chỉ rõ sự vô thường. Hầu hết các tế bào trên cơ thể người được thay thế mỗi ngày, một số ít tế bào có chu kỳ thay thế lâu hơn, nhiều ngày hoặc nhiều tháng. Điều đó có nghĩa là sau vài tháng hay vài năm, gần như chúng ta có một cơ thể mới hoàn toàn. Chỉ có một số ít tế bào ở mắt và tế bào thần kinh ở não là tồn tại suốt cuộc đời. Nhưng khi ta chết chúng cũng tan hoại.
 
- Các pháp vô thường:
 
Hành giả đặt niệm các pháp vô thường để quán xét. Từ trời, đất, con người, động vật, cỏ cây, thời tiết, vạn vật, có thứ gì thường hằng? Có phải chúng luôn thay hình đổi dạng, biến đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác, theo trình tự thành, trụ, hoại, không (hay sinh, trụ, dị, diệt).
 
Ví dụ một cơn sóng, khi mặt nước nhô lên thì sóng được hình thành, sinh ra. Khi nhô lên cao nhất là trụ. Khi hạ xuống là hoại, hay dị. Khi sóng tan là nó trở về không, hay diệt. Sự vô thường thể hiện rất rõ qua hình ảnh sóng trên mặt nước, cứ hình thành rồi biến mất không ngừng.
 
Phật dạy tất cả mọi người khổ là do không biết các pháp vô thường, nên ưu bi, sầu khổ, buồn tủi. Vậy nay chúng ta đã được biết giáo lý này thì còn chần chừ gì nữa mà không kiên trì triển khai tri kiến để thấu hiểu, thấm nhuần được lý vô thường. Có thấu hiểu trên thế gian này không có một vật gì thường hằng thì chúng ta mới buông xả, không còn dính mắc dù bất kỳ một vật gì, nên chúng ta được giải thoát hoàn toàn. Trưởng Lão có một bài kệ rất hay nói về vô thường:
 
“Buông xuống đi, hãy buông xuống đi!
Chớ giữ làm chi, có ích gì?
Thở ra chẳng lại còn chi nữa?
Vạn sự vô thường buông xuống đi!”
 
Chỉ với 2 đề tài trọng tâm là nhân quả và vô thường, nếu được triển khai tu tập thường xuyên hằng ngày sẽ mang lại sự giải thoát rất lớn cho hành giả. Ngoài ra, mọi người có thể triển khai thêm các đề tài sau đây nếu thấy cần thiết: đề tài về khổ, vô ngã, lý duyên hợp (12 nhân duyên), bất tịnh, của cải tài sản làm vất vả chết có mang theo được không, vợ chồng con cái có phải vay nợ nhân quả không, danh, sắc dục, ngủ, ăn, thân người phụ nữ, 5 triền cái, 7 kiết sử, 4 bất hoại tịnh, 5 giới, 10 điều lành, 4 vô lượng tâm…
 

► Thường quán xét về khổ

 
Một người không thật sự thấu hiểu đời người là khổ, mà chỉ hiểu biết hời hợt, lúc hiểu lúc không, thì khó lòng tu tập theo đạo Phật. Sự hiểu biết về khổ không đủ sâu sắc làm cho họ không có động lực để tìm hiểu, nghiên cứu thấu đáo pháp Phật, và cũng không có đủ lòng kiên trì để thực hành tu tập ngăn ác, diệt ác. Dục lạc thế gian sẽ cuốn trôi họ.
 
Vì vậy, những ai muốn tìm cách thoát khổ thì trước tiên phải có ý thức về khổ, tư duy quán xét cho thấu rõ khổ là gì, nguyên nhân nào đưa đến khổ, để có động lực thúc đẩy mình thực hiện con đường thoát khổ. Phải quán xét cho đến khi ngay cả các dục lạc, các cảm thọ lạc cũng thấy là khổ, là nguy hiểm thì con đường giải thoát sớm muộn cũng đến đích thành công. Mỗi ngày hành giả nên tự nhắc bản thân về sự khổ để không quên mục đích chính của đời người. Đức Phật dạy:
 
“Khi ta trú vào lạc, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp giảm thiểu.
 
Khi ta tinh cần dùng đau khổ chống với tự ngã, các bất thiện pháp giảm thiểu, các thiện pháp tăng trưởng.”
 
Quán xét về khổ là quán xét về 4 chân lý Phật dạy: khổ, tập, diệt, đạo. Vì vậy, các bạn nên chuyển qua Phần 2 nghe các bài giảng của Trưởng Lão về 4 diệu đế, 12 nhân duyên, vô thường, để có thêm tri kiến giúp cho sự triển khai tư duy, quán xét. Sau đây là một vài gợi ý sơ lược để các bạn tham khảo.
 
Hành giả đặt niệm khổ, siêng năng quán xét tư duy đời sống là khổ, lòng ham muốn là khổ, nhân quả là khổ, ái dục là khổ, sân hận là khổ, nhớ thương là khổ; thân, thọ, tâm, pháp vô thường bất tịnh là khổ; thực phẩm bất tịnh thường ăn vào sinh ra bệnh tật là khổ, ái dục bất tịnh sinh ra dục lạc khiến tâm mê mờ tạo nhiều ác nghiệp là khổ, sinh già bệnh chết là khổ... Quán tưởng nhàm chán cuộc sống thế gian là khổ, vì vui đó rồi lại khổ đó, khổ đó rồi lại vui. Cuộc sống của con người giống như một vở tuồng trên sân khấu, không có gì bảo đảm.
 
Từng đề tài nhỏ ở trên hành giả hãy đặt niệm tư duy quán xét thật kỹ để thấy rõ sự khổ. Ví dụ quán xét thọ là khổ. Thường thì thọ khổ như đau nhức, mệt mỏi, nóng lạnh, ai cũng thấy nó là khổ. Nhưng còn thọ lạc, tức là những cảm giác thích thú, khoái lạc, thì ai cũng thích và bị dính mắc, không thấy nó là khổ. Để thấy thọ lạc là khổ và không dính mắc nó thì phải tư duy quán xét thật kỹ sự vô thường của các cảm thọ, sự nguy hiểm khi chạy theo thọ lạc gây ra những hậu quả gì, rồi so sánh sự thụ hưởng thọ lạc so với hỷ do ly dục sinh, cái nào vui ít khổ nhiều, cái nào là cái vui chân thật, lâu bền?
 
Một người thường chạy theo dục lạc, thỏa mãn dục lạc thì dẫn đến điều gì? Có phải sẽ làm các bất thiện pháp tham, sân, si tăng trưởng? Và làm thiện pháp giảm thiểu.
 
Một người không chạy theo dục lạc, siêng năng quán xét về khổ, dùng sự thấu hiểu về khổ làm động lực để tu tập vươn lên thoát khổ thì dẫn đến điều gì? Có phải sẽ làm các bất thiện pháp giảm thiểu, các thiện pháp tăng trưởng.
 

► Quán xét về vô ngã

 
Đặt niệm vô ngã quán xét. Bởi vì thế giới này vận hành theo quy luật nhân quả, các duyên lúc hợp lúc tan, nên nó là vô thường, không có cái ngã thường hằng bất biến. Biết thế gian này là vô thường, khổ, vô ngã nên ta xả lòng ham muốn của mình, không còn dính mắc một vật gì.
 

► Quán xét về lý duyên hợp

 
Lý duyên hợp: Tất cả mọi thứ đều do các duyên hợp lại mà thành, nghĩa là được cấu thành từ những thứ nhỏ hơn. Khi hết duyên chúng tách nhau ra thì không còn một vật gì thường hằng bất biến. Có hợp phải có tan. Phật dạy 12 nhân duyên hợp lại thành thế giới đau khổ. 12 nhân duyên tan hoại thì thế giới đau khổ chấm dứt.
 
Vì vậy chúng ta cần thông suốt 12 nhân duyên (12 cửa vào đạo) và biết cách xông vào phá tan trận đồ 12 nhân duyên này. Chỉ cần phá được 1 duyên là 12 duyên không hợp nhau lại được, thế giới khổ đau chấm dứt, ta được giải thoát. Ví dụ chúng ta xông vào phá cửa Vô Minh, đồng nghĩa mở ra cửa Minh, bằng cách triển khai tri kiến giải thoát về lý nhân quả, lý các pháp vô thường, và sống đúng giới luật đức hạnh. Để hiểu rõ về 12 nhân duyên, các bạn nên chuyển qua Phần 2 nghiên cứu các bài giảng của Trưởng Lão. Sau đây là sơ lược về 12 nhân duyên.
 
- Vô Minh: là thấy biết các pháp không đúng như thật. Ví dụ, cho rằng cái thân là của mình, là cái ngã thường hằng; cho rằng cái tâm là linh hồn, là Phật tánh.
 
- Hành: vì thấy biết các pháp không đúng như thật nên hành động theo sự lầm chấp, tham đắm, không phân biệt được hành thiện, hành ác.
 
- Nghiệp: từ hành sinh ra nghiệp, hành ác sinh ra nghiệp ác, hành thiện sinh ra nghiệp thiện.
 
- Danh Sắc: từ nghiệp thiện, ác sinh ra danh sắc theo quy luật nhân quả. Danh sắc là thân người (người chưa tu chứng đạo). Danh là tưởng uẩn. Sắc là sắc uẩn, là cái thân người có 6 căn: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý.
 
- Lục Nhập: là 6 trần ở môi trường sống, gồm có sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.
 
- Xúc: 6 trần bên ngoài thâm nhập vào thân người qua 6 căn nên có sự va chạm, tiếp xúc.
 
- Thọ: do tiếp xúc sinh ra cảm giác dễ chịu (lạc), hay khó chịu (khổ), hay trung tính (không lạc không khổ).
 
- Ái: những cảm giác dễ chịu làm ta ái, tức là ưa thích, thèm khát, ham muốn.
 
- Hữu: vì ưa thích nên ta muốn có được nó. Hữu nghĩa là có.
 
- Thủ: khi có được những thứ mình thích thì mình cố giữ lại. Thủ nghĩa là giữ.
 
- Sinh: khi giữ lại, tích lũy ngày càng nhiều tạo thành sinh y. Sinh nghĩa là sống, đời sống. Y nghĩa là nương tựa vào. Sinh y nghĩa là tất cả những thứ ta nương tựa vào để sống, đó là của cải, tài sản, cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em, họ hàng, làng xóm, bạn bè…
 
- Ưu Bi, Sầu Khổ, Già, Bệnh, Chết: do muốn tích lũy của cải, tài sản, các mối quan hệ, nên con người phải vất vả, khi những thứ này mất mát, hao mòn thì ưu bi, sầu khổ, già, bệnh, chết.
 

► Quán xét về bất tịnh

 
Bất tịnh có 2 đề tài, đó là thân bất tịnh và thực phẩm bất tịnh.
 
Đặt niệm thân bất tịnh để quán xét. Vì mình thường chấp cái thân của mình, cho nên phải đặt cái niệm thân bất tịnh để thấy nó thật sự là bất tịnh. Vì vậy mà mình ngao ngán, không còn dính vào cái thân này, không còn chấp cái thân này nữa.
 
Đặt niệm thực phẩm bất tịnh để quán xét. Vì có nhiều thực phẩm cho vào miệng ăn mình thấy nó ngon (thọ lạc), nên sinh ra tham ăn tham uống. Muốn hết tham ăn thì phải quán thực phẩm bất tịnh. Ta quán đồ ăn khi cho vào miệng nhai một lúc thì nó thành thứ gì, khi nuốt vào nó thành thứ gì? Thử nhè ra hay nhìn người khác nôn ói ra là biết liền. Rồi cái thực phẩm đó ta để một vài ngày, xem nó còn thơm ngon, đẹp đẽ nữa không, hay nó ôi thiu, chảy nhớt, nấm mốc vô cùng bất tịnh? Nhìn thật kỹ, quán thật sâu để thấy sự bất tịnh của thực phẩm.
 

► Quán xét về của cải tài sản

 
Đặt niệm của cải tài sản của mình trước mặt để quán xét xem của cải tài sản của mình nó làm mình khổ như thế nào. Quán xét để thấy ta đã phải quá vất vả, cực khổ như thế nào để làm ra nó? Mà khi có rồi thì phải lo lắng bảo vệ, giữ gìn nó như thế nào? Khi bị mất đi, hư hao thì ta khổ sở ra làm sao? Đủ mọi mặt, đủ cách thức nó làm cho ta đau khổ trong cuộc đời. Ta quán xét tiếp rằng, khi chết có mang theo tài sản được không, từ những vật nhỏ nhất đến những vật ta trân quý nhất, tiền bạc, vàng, kim cương, nhà, xe mà mình đã làm ra được, khi chết mang theo được thứ gì? Quán xét để thấy của cải tài sản không phải là những thứ luôn luôn ở bên mình. Có vậy ta mới không tham đắm, dính mắc chúng.
 

► Quán xét về vợ chồng con cái

 
Đặt niệm vợ chồng con cái quán xét xem có phải là nhân quả vay nợ nhau không? Bởi vì vợ chồng con cái là những người gần gũi với mình nhất và dễ làm cho mình dính chặt trong cuộc đời của mình. Cho nên quý cư sĩ đặt niệm đó để quán xét xem có phải là cái nhân quả vay nợ nhau hay đó là một tình cảm thiêng liêng nào để thành vợ thành chồng với nhau. Đó là đặt cái niệm để quý cư sĩ quán xét. Vì vậy quý cư sĩ phá được lậu hoặc đó.
 

► Quán xét về danh

 
Đặt niệm danh. Ai cũng ham danh này, danh kia, do đó ta đặt niệm danh quán xét, xem cái danh có thật hay giả.
 

► Quán xét về sắc dục

 
Đặt niệm sắc dục quán xét. Sắc dục gợi cho mình lòng ham thích tình dục. Quán xét những hành động sắc dục là bất tịnh, những hành động sắc dục không có sạch sẽ. Do đó đặt cái niệm đó để quý cư sĩ quán xét xem coi niệm đó có thật sự là hạnh phúc không, hay đó chỉ là một cái giả để tạo cho quý cư sĩ cái nhân tái sanh luân hồi.
 
Những cái như vậy chúng ta phải đặt niệm để quán xét, có quán xét thì chúng ta mới thấu triệt được tất cả những cái này, và do đó chúng ta phá được những lậu hoặc ở trong tâm của mình.
 

► Quán xét về ngủ

 
Đặt niệm ngủ quán xét xem cái ngủ từ đâu đến, cái ngủ đưa đến những cái gì, tai hại của ngủ ra sao. Tức là mình thấu suốt được cái ngủ thì mình không còn ham ngủ nữa.
 

► Quán xét về ăn

 
Đặt niệm ăn quán xét coi nó ngon chỗ nào, rồi nó hết ngon chỗ nào, rồi nó bất tịnh chỗ nào. Ăn để sống hay sống để chạy theo cái ăn? Thấu suốt được cái ăn thì mình không còn ham ăn nữa.
 

► Quán xét về thân người phụ nữ

 
Đặt niệm thân của người phụ nữ để quán xét. Vì hầu hết thấy thân của người phụ nữ là đẹp, là tốt, là cám dỗ, là mềm mại, là thích thú, cho nên mình đặt cái niệm phụ nữ ra xem coi nó như thế nào. Do mình thấu suốt được thân người phụ nữ không có gì hấp dẫn, không có gì quyến rũ, mình thấy sợ, thấy ghê gớm và mình xem như là một sự nguy hiểm làm mình dính mắc không thoát ra khỏi sự bất tịnh, hạ liệt, đưa đến tái sinh luân hồi khổ đau, mình quá sợ hãi.
 

► Quán xét về 5 triền cái

 
Triền cái nghĩa là màn che. Có 5 màn che là tham, sân, si, mạn, nghi, 5 màn che này che đậy làm chúng ta không thấy.
 
Quán xét 5 triền cái để nhận biết tâm mình có đang rơi vào trạng thái nào trong 5 triền cái này không.
 
- Tham triền cái: là lòng tham muốn che đậy làm chúng ta không thấy cái đúng, cái sai, cái thiện, cái ác. Do chỗ đó mới đem đến cho chúng ta khổ đau.
 
Ví dụ một người tham ăn uống, khi nhìn thấy các món ăn mạng động vật, tâm tham ăn khởi lên lên che đậy làm họ không thấy sự khổ của chúng sinh phải bỏ mạng. Họ chỉ biết thơm ngon quá và ăn cho thỏa, không biết rằng mình đã đánh mất tâm từ bi và gánh lấy nghiệp sát sinh.
 
- Sân triền cái: là lòng tức giận ngăn che không thấy khổ. Khi cơn sân nổi lên nó ngăn che không cho mình thấy khổ, nên mình mặc sức chửi mắng, đánh đập, hại người ta. Lúc hết sân mình mới nhận ra, lúc sân mình đang rất khổ và gây ra nhiều cái khổ khác.
 
- Si triền cái: là cái màn che trí tuệ làm cho nó không hiểu biết chánh pháp, tà pháp, thiện, ác.
 
- Mạn triền cái: là tính ngạo mạn, tự kiêu, tự đại ngăn che làm cho mình không thấy chỗ dở của mình. Ngược lại, chỉ thấy cái hay của mình, tự nghĩ mình hơn người, cái gì mình cũng hiểu biết hết.
 
- Nghi triền cái: là lòng nghi ngờ ngăn che không thấy sự thật.
 

► Quán xét về 7 kiết sử

 
Kiết sử là những pháp trói buộc con người, khiến cho đau khổ. Có 7 kiết sử là: ái kiết sử, sân kiết sử, kiến kiết sử, nghi kiết sử, mạn kiết sử, hữu tham kiết sử, vô minh kiết sử.
 
Quán xét về 7 kiết sử để nhận biết tâm mình có đang rơi vào trạng thái nào trong 7 kiết sử này không.
 
- Ái kiết sử: là lòng thương yêu, ưa mến, thích thú của mình với một đối tượng nào đó, như một người, một con vật, một đồ vật… sự trói buộc đó làm mình đau khổ.
 
- Sân kiết sử: là lòng sân, buồn, tức, giận dữ kéo dài hoài trong lòng mình không nguôi, làm cho mình buồn khổ.
 
- Kiến kiết sử: là sự cố chấp hiểu biết của mình, cho là đúng, còn tất cả sự hiểu biết của người khác cho là sai. Vì thế nó tự trói buộc mình lại, làm khổ mình. Ai nói gì mình cũng chả nghe, dù họ có kinh nghiệm từng trải.
 
- Nghi kiết sử: là lòng nghi ngờ tự trói buộc mình, làm khổ mình, mà chẳng bao giờ chịu rời bỏ
 
- Mạn kiết sử: là lòng ngã mạn, kiêu căng, tự đắc, tự trói buộc mình, lúc nào cũng xem mình là trên hết. Hầu như người ta có một chút ít học thức nào đó, bỗng dưng người ta có mạn kiết sử liền tức khắc, nó trói buộc họ, họ coi chỗ học của họ là hơn hết, cho nên họ bị ngã mạn.
 
- Hữu tham kiết sử: là những vật mình có rồi và nó trói buộc mình, làm cho mình không buông xả được. Ai mà làm hư, làm mất thì mình buồn, tiếc, giận, rất là khổ sở.
 
- Vô minh kiết sử: là điều mình không hiểu mà cứ nghĩ rằng mình hiểu.
 

► Quán xét về 4 bất hoại tịnh

 
4 bất hoại tịnh gồm có: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới.
 
Chữ “niệm” ở đây có nghĩa là bắt chước, làm theo.
 
- Niệm Phật: ta tư duy, quán xét, suy ngẫm Đức Phật sống như thế nào mà tâm hồn thanh thản, an lạc, giải thoát, rồi ta tâm tâm niệm niệm về đời sống của Ngài. Khi tâm niệm như vậy khiến ta đặt trọn lòng tin nơi Phật, do đó Phật sống như thế nào thì ta cố gắng sống như thế nấy, Phật làm như thế nào thì ta cố gắng làm như thế nấy. Sống và làm đúng như Phật thì tự nhiên ta ly dục ly ác pháp, tâm được thanh tịnh, giải thoát.
 
- Niệm Pháp: có nghĩa là tư duy, suy nghĩ những pháp mà Đức Phật đã dạy và làm theo.
 
- Niệm Tăng: chọn vị Thánh Tăng trong thời Đức Phật làm ngọn đuốc soi đường, hằng ngày ta tư duy, quán xét đức hạnh sống của vị Tăng đó làm gương và tập sống như vậy.
 
- Niệm Giới: học và quán xét tư duy cho thông suốt về từng giới luật đức hạnh, ví dụ ta đang tu tập 5 giới thì quán xét về từng giới trong 5 giới, rồi hằng ngày quyết tâm sống đúng như vậy.
 
4 bất hoại tịnh là một chùm pháp, chỉ cần tu một pháp là thành tựu hết cả bốn pháp.
 

► Quán xét về 5 giới

 
Giống phần niệm Giới trong 4 bất hoại tịnh. Hành giả nghe, học thật kỹ từng giới rồi quán xét tư duy cho hiểu, cho thấm nhuần, sau đó dùng pháp hướng tâm áp dụng vào đời sống hằng ngày.
 

► Quán xét về 10 điều lành

 
Cũng như 5 giới, hành giả nghe, học thật kỹ từng điều lành, điều ác trong 10 điều, rồi quán xét tư duy cho hiểu, cho thấm nhuần, sau đó dùng pháp hướng tâm áp dụng vào đời sống hằng ngày.
 

► Quán xét về 4 vô lượng tâm

 
Hành giả nghe, học thật kỹ từng tâm từ, bi, hỷ xả trong 4 tâm vô lượng, rồi quán xét tư duy cho hiểu, cho thấm nhuần, sau đó hằng ngày trau dồi bằng pháp hướng tâm.
 

► Tu tập định vô lậu có 3 việc cần phải lưu ý

 
  • Phòng hộ 6 căn: Tức là giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý không cho dính mắc 6 trần là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Nhờ thiện xảo, khéo léo giữ gìn như vậy nên tâm không phóng giật.  Tâm không phóng giật là tâm thường quay vào trong nên không tham dự chuyện thiên hạ bên ngoài, nên thường sống một mình, nhưng lại hòa hợp với mọi người, ai làm sao cũng được, biết tùy thuận và bằng lòng.
 
  • Sanh y là căn bản của sự khổ đau: Sanh y có nghĩa là những pháp xung quanh ta tạo thành cuộc sống của ta. Khi ta chưa biết sử dụng trí tuệ nhân bản nhân quả thì chính sanh y, đời sống chung đụng với mọi người, mọi vật, mọi loài chúng sinh mà chúng ta phải chịu nhiều khổ đau, phiền toái. Đây là lời cảnh giác khuyên nhắc của Đức Phật, người cư sĩ tại gia hãy đề cao cảnh giác đối với mọi sanh y.
 
  • Giải thoát là nhờ đoạn dứt sanh y: Còn đây là lời khuyên của Đức Phật đối với một vị tỳ kheo về sanh y, nếu muốn tìm tu giải thoát mà không đoạn dứt sanh y thì không bao giờ có giải thoát được.
 
Đến đây, chúng ta đã tóm lược xong pháp tu định vô lậu. Đây pháp tu trọng tâm để ly dục ly ác pháp, vì vậy khi tu tập hành giả phải có sự nhiệt tâm, có lòng tin pháp môn này của Phật giúp ta có trí tuệ hiểu biết mang đến sự giải thoát, kiên trì tu tập hằng ngày sẽ có giải thoát ngay liền.
 
Tiếp đến, chúng ta tìm hiểu pháp tu định chánh niệm tỉnh giác để biết cách tạo ra một sức tỉnh thức. Sau khi tìm hiểu xong, chúng ta sẽ nắm được đủ 3 pháp hành quan trọng để tu tập xả tâm là định vô lậu, định chánh niệm tỉnh giác và như lý tác ý.
 

4) Định chánh niệm tỉnh giác

 
Định chánh niệm tỉnh giác nghĩa là luôn tỉnh táo sáng suốt trong chánh niệm.
 
Tu tập định chánh niệm tỉnh giác gồm có 2 phần: tu tập tỉnh thức trên bước đi (đi kinh hành) và tu tập tỉnh thức trong những hành động sống hằng ngày.
 
“Chánh niệm” ở đây là cái hành động đang làm, vì chúng ta lấy hành động để làm cho sức tỉnh của chúng ta có. Luôn luôn lúc nào ý thức cũng tỉnh táo tập trung biết cái hành động đang làm thì đó là tỉnh thức.
 
Ví dụ ta đang tu tập tỉnh thức trên bước đi. Lúc này hành động bước đi là chánh niệm, nếu ta luôn biết bước đi là tu đúng. Nếu đang đi mà ta biết hơi thở, hay mải suy nghĩ theo niệm gì đó khởi lên là sai, vì đó là cái niệm khác chứ không phải niệm hành động bước đi. Đang đi mà quên mất hành động đang đi là thất niệm, là không tỉnh thức.
 
Vì vậy, khi tu tập phải tùy theo sức của mình, sức tỉnh của mình ở mức nào thì mình tập luyện ở mức đó. Ví dụ sức tỉnh của mình là 1 phút thì mình tu 1 phút rồi ngừng, không tập trung nữa. Xả nghỉ một lúc cho thân tâm thoải mái, nhẹ nhàng, sau đó tu lại 1 phút khác. Nếu sức tỉnh 1 phút mà tu tập 2 phút thì quá sức, hay tu nhiều lần quá, tu liên tục không nghỉ thì không được kết quả gì mà còn gây mệt mỏi, thất niệm, ức chế tâm.
 
Tu tập phải tùy theo, nương theo hành động tự nhiên của thân mình. Thân hành tự nhiên của mình là đi nhanh thì khi tu tập phải theo tướng đi nhanh mà tu, không được đi chậm. Còn ai thân hành tự nhiên là đi chậm thì khi tu tập phải theo tướng đi chậm mà tu, không được đi nhanh. Phải đi với tướng tự nhiên của mình, nương theo sự tự nhiên đó mà tu tập. Tương tự, khi tu tập trong các hành động cũng vậy.
 
Mỗi ngày hành giả dành một khoảng thời gian thích hợp để tu tập định chánh niệm tỉnh giác. Khi tu tập cần có sự nhiệt tâm, có lòng tin pháp môn này của Phật giúp ta có sức tỉnh thức để làm chủ thân tâm, như vậy mới có kết quả tốt. Nếu tập lấy có, thiếu sự nhiệt tâm thì không có kết quả.
 
Bây giờ chúng ta đi vào tìm hiểu cách thực hành tu tập tỉnh thức trên bước đi, là đi kinh hành, và tu tập tỉnh thức trong hành động sống hằng ngày. Có 2 loại đi kinh hành chúng ta cần tập, là đi kinh hành thư giãn và đi kinh hành tu tập chánh niệm tỉnh giác.
 

► Đi kinh hành thư giãn

 
Khởi đầu tu tập tỉnh thức, hành giả tập đi kinh hành thư giãn.
 
Trước khi đi ta hướng tâm “đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành” rồi đi như người vô sự nhàn du, không tập trung dưới bàn chân, đi để thư giãn, làm thân tâm tỉnh táo, thanh thản, nhẹ nhàng. Trong khi đi, thỉnh thoảng lâu lâu lại nhắc “đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành”.
 
Khi đi kinh hành có niệm khởi lên, ta xem đó là niệm ác hay niệm thiện. Nếu là niệm ác, làm khổ mình, khổ người, ta tác ý bỏ đi liền. Niệm tào lao cũng tác ý bỏ đi. Nếu là niệm thiện, ví dụ ta khởi lên làm việc này, làm việc kia để giúp người, niệm thiện là tốt, ta không diệt mà khéo nhắc để việc đó qua một bên, ta sẽ làm sau, còn bây giờ ta đang tu tập.
 
Đi chừng 10 phút hay 15 phút thì xả nghỉ. Nếu chưa quen thì tập chừng 5 phút. Khi quen rồi hành giả tăng dần thời gian lên, tăng đến tối đa 30 phút cho một lần tu tập.
 
Hành giả tu tập đi kinh hành thư giãn đều đặn hằng ngày, ít nhất một lần mỗi ngày. Ngoài ra, đi kinh hành thư giãn có thể dùng khi thân, tâm mệt mỏi, hay dùng sau khi tu tập định vô lậu để thư giãn tâm trí. Hoặc các bạn có thể sử dụng đi kinh hành thư giãn như một phương pháp vận động thay cho thể dục, rất tốt cho sức khỏe.
 
Muốn đi kinh hành trong vô sự được dễ dàng, hành giả nên dùng tri kiến xả tâm, đặc biệt là tri kiến về nhân quả, và sống trong thiện pháp. Xả tâm được càng nhiều càng tốt, khi đi sẽ ít khởi nghĩ lăng xăng, lo lắng, tính toán chuyện này chuyện kia.
 
Sau một thời gian tu tập đi kinh hành thư giãn, hành giả thấy lúc đi được an ổn, vô sự, đi xong thấy tỉnh táo, nhẹ nhàng, khỏe khoắn, và thực hành thật thuần thục, lần nào tu tập cũng thấy như vậy. Đồng thời đã có một lượng tri kiến xả tâm nhờ tu tập định vô lậu và thực hiện tốt 5 giới, thì có thể bắt đầu chuyển sang đi kinh hành tu tập chánh niệm tỉnh giác.
 

► Đi kinh hành tu tập chánh niệm tỉnh giác

 
Cách thực hành giống như đi kinh hành thư giãn, nhưng bây giờ ta thêm sự tập trung vào bước chân. Tức là ta bắt đầu tu tập nhiếp tâm. Nhiếp tâm có nghĩa là nhiếp phục tâm, bắt tâm làm theo lệnh. Nhiếp tâm vào bước chân khi đi kinh hành tức là lệnh cho tâm chỉ biết và nằm ở bước chân, không được biết các thứ khác.
 
Tu tập nhiếp tâm mà trước đó chưa có xả tâm bằng tri kiến và sống đúng thiện pháp thì sẽ gây ức chế. Bởi tâm chưa xả thì tâm tán loạn, lăng xăng khởi lên đủ thứ, mà ta bắt tâm ở yên một chỗ thì tâm bị ức chế. Nếu ức chế quá mạnh sẽ làm tưởng thức hoạt động, các trạng thái tưởng xuất hiện, như vậy là tu sai.
 
Vì vậy, trước khi đi kinh hành tập nhiếp tâm, hành giả cần xả tâm bằng tri kiến và sống được 5 giới thiện pháp. Đồng thời tu tập đi kinh hành thư giãn thuần thục để quen với việc đi trong vô sự. Lúc này, hành giả mới bắt đầu đi kinh hành chánh niệm tỉnh giác chú ý vào bước chân. Khi đi dùng ý thức để theo dõi bước chân chứ không cúi xuống mắt nhìn thẳng vào bước chân, vì nhìn xuống như vậy sức gom tâm mạnh quá, tập trung quá và gây mỏi cổ. Mắt nên nhìn về phía trước cách một khoảng vài mét. Cách thực hành cụ thể như sau:
 
Hành giả chọn một nơi thanh vắng để tu tập, có thể đi quanh sân hay đi quanh nhà, nếu phòng riêng đủ rộng thì đi quanh phòng. Nên chọn đoạn đường không có động vật, côn trùng. Trước khi đi ta nhắc tâm “tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành”, rồi ra lệnh “bước”, bắt đầu đi kinh hành. Hành giả đi theo thân hành tự nhiên của mình, ý lắng nghe bước đi, còn con mắt không nhìn thẳng vào bước chân mà nhìn về phía trước cách độ 2 hay 3 mét để thư giãn bớt sự tập trung, nhờ thế sẽ thấy thoải mái dễ chịu nhưng ý không rời biết bước chân.
 
Cứ đi như vậy, ý theo dõi bước chân, mắt nhìn ra xa vài mét. Thỉnh thoảng nhắc luân phiên 2 câu: “tôi đi kinh hành tôi biết ta đi kinh hành”, “tôi đi kinh hành tôi phải tỉnh thức mỗi bước chân tôi đi”. Khi mình nhắc rồi thì phải để cho có thời gian tâm lắng vào trong chánh niệm, trong hành động đi. Trong khoảng thời gian đó, khi tâm lắng vào chánh niệm thì sức tỉnh nó tăng lên. Chừng khi sự lắng tâm đó nó bị vơi đi, tức vì sức tập trung của ý thức chúng ta chưa quen cho nên nó không bám chặt vào hành động đó được, nó lơi lỏng. Nó lơi lỏng thì chúng ta lại dùng câu pháp hướng nữa, lại nhắc nó một lần nữa "tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành", hay “tôi đi kinh hành tôi phải tỉnh thức mỗi bước chân tôi đi”. Nhờ vậy, nó lại tập trung vào hành động đi nữa, nó lại tỉnh thức cao hơn nữa. Chúng ta cứ tiếp tục tác ý như vậy thì sức tỉnh ngày càng cao. Đó là hướng tâm vào việc đang làm.
 
Trong khi đi, nếu có niệm khởi lên, ta xem đó là niệm ác hay niệm thiện. Nếu là niệm ác, làm khổ mình, khổ người, ta tác ý bỏ đi liền. Niệm tào lao cũng tác ý bỏ đi. Nếu là niệm thiện, ta không diệt mà khéo nhắc để việc đó qua một bên, ta sẽ làm sau, còn bây giờ ta đang tu tập tỉnh thức, cần tập trung vào bước chân.
 
Đi chừng 5 phút thì xả nghỉ. Nếu ai chưa quen thì giảm xuống 3 phút, 2 phút, 1 phút, tùy sức tỉnh của mỗi người. Muốn biết sức tỉnh của mình ở mức nào thì hành giả kiểm nghiệm, ví dụ đi trong 1 phút mà không bị quên mất hành động đang đi, tức là không bị thất niệm, thì sức tỉnh của mình là 1 phút. Nếu đi trong 1 phút mà bị thất niệm thì giảm thời gian xuống, tu tập nửa phút, tu tập ở mức thời gian nào mà không bị thất niệm nữa thì dừng ở mốc thời gian đó để tu tập cho có chất lượng.
 
Sau một thời gian tu tập, ví dụ 1 phút, trong 1 phút đó không bị thất niệm, ý luôn tỉnh táo biết bước chân và lần nào tu tập 1 phút cũng đều được như vậy. Nhưng khoan chưa vội tăng lên 2 phút. Vẫn giữ tu tập 1 phút, tập luyện cho đến khi chỉ cần bước vài bước là an trú được, có sự an lạc trong bước đi, trong thân tâm. Sự an trú sẽ từ từ tăng từ thấp lên cao, càng ngày càng mạnh rõ ràng và mau đạt được. Phải hoàn toàn chủ động cho được, muốn nhiếp là nhiếp được. Càng tập luyện càng thấy khỏe. Khi thuần thục như vậy rồi hành giả hãy tăng thời gian lên. Nếu thấy ở mốc thời gian mới tu tập có nhiều niệm khởi, sức tỉnh không cao, hay thất niệm, thì quay về mốc cũ thực hành lại cho thuần thục. Mốc thời gian tăng lên tối đa cho mỗi lần tập là 30 phút.
 
Mỗi ngày hành giả nên tập đi kinh hành chánh niệm tỉnh giác ít nhất một lần. Nếu rảnh có thể đi nhiều lần. Giữa các lần tu tập nên có sự xả nghỉ hợp lý, chừng 10 phút hay 15 phút, khi nào thấy thân tâm thoải mái, nhẹ nhàng thì ta tu lại. Không tập quá nhiều lần liền nhau để tránh mệt mỏi, ức chế.
 
Khi tu tập đi kinh hành thuần thục, nhiếp được tâm vào bước chân và tâm an trú ở đó, thì sự tập luyện sẽ phát sinh ra năng lượng cho hành giả. Pháp Phật tập luyện đúng rồi thì năng lượng ngày càng được sung mãn. Trong khi tập luyện thì an vui, an lạc. Khi xả tập luyện ra thì thấy khỏe khoắn thích thú. Lúc đó sẽ tự động làm giảm giờ ngủ, tăng giờ tập luyện lên, hành giả sẽ đạt được kết quả vững vàng, sung mãn, sức tỉnh thức tăng cao. Lưu ý là giai đoạn tu tập này mục đích là tập luyện sự tỉnh thức, sự tinh cần và nghị lực, không phải tu tập cho hết vọng tưởng.
 
Trước đây sức tỉnh thức thấp, chúng ta tu tập định vô lậu chủ yếu là nhờ vay mượn tri kiến của người khác để quán xét tư duy. Còn khi đã có sức tỉnh thức rồi thì chúng ta không cần vay mượn của ai hết, chỉ cần đặt cái niệm trước mặt, chẳng hạn niệm thân bất tịnh hay niệm thân vô thường vô ngã. Chúng ta đặt niệm đó trước mặt, ngồi im lặng một chút xíu, thì tự ở trong tâm chúng ta, trong đầu chúng ta phóng ra tri kiến giải thoát, từ đó nó quán xét thấy rất rõ tất cả những cái bất tịnh như thế nào, tự nó nó quán xét không vay mượn của ai hết. Nó thông suốt như vậy gọi là tri kiến giải thoát.
 
Tu tập tỉnh thức bằng cách đi kinh hành có nhiều lợi ích như vậy, hành giả nên dành thời gian thực hành đều đặn hằng ngày. Có thể áp dụng thực hiện cả 2 loại đi kinh hành. Khi nào cần thư giãn thì đi kinh hành thư giãn, rất tốt cho sức khỏe và tâm trí, khi nào cần tu tập tỉnh thức cao thì đi kinh hành chánh niệm tỉnh giác.
 

► Tỉnh thức trong hành động sống hằng ngày

 
Tương tự như tập tỉnh thức trên bước đi, hành giả tập tỉnh thức trong những hành động sống hằng ngày cũng nương theo thân hành tự nhiên và tùy theo sức tỉnh của mình mà tu tập, dùng pháp hướng tâm nhắc cho tâm luôn nhớ được hành động việc làm của mình.
 
Ví dụ sức tỉnh của mình là 1 phút và tập tỉnh thức trong hành động quét nhà, thì bắt đầu tu tập hướng tâm nhắc “quét nhà, tôi biết tôi đang quét nhà”, hoặc nhắc ngắn gọn hơn “tôi đang quét nhà” rồi chú ý vào hành động đang quét. Trong thời gian 1 phút, nếu thấy sự chú ý vào hành động vơi đi, lơi lỏng, hay có khởi niệm nghĩ linh tinh, thì ta dùng câu pháp hướng nhắc “quét nhà, tôi biết tôi đang quét nhà”, nhờ vậy, ý lại tập trung vào hành động quét nhà, sức tỉnh thức tăng lên. Hết 1 phút ta ngừng, xả nghỉ, phải tu đúng với sức của mình. Nếu muốn tu tiếp thì một lúc sau, chừng 10 phút, 15 phút ta tu lại.
 
Biết rõ sức tỉnh của mình để tu đúng thời lượng và xả nghỉ đúng cách sẽ mang lại sức tỉnh rất cao, tu ít mà đạt chất lượng cao. Còn nếu tu sai, sức tỉnh 1 phút mà tu 2 phút, rồi không có thời gian xả nghỉ mà cứ tu liên tục, hay tu nhiều lần quá thì ta bị lờ mờ, lúc nhớ lúc quên hành động đang làm, hay đang làm mà mải nghĩ chuyện khác. Tu như vậy không có kết quả, chỉ làm ta mất thời gian.
 
Tập 1 phút đạt chất lượng tỉnh thức cao rồi chúng ta tăng dần thời gian lên. Tăng dần đến khi chúng ta tu riết, tỉnh thức tất cả thời gian trong mọi hành động. Suốt ngày tỉnh thức.
 
Đến đây, chúng ta kết thúc phần trọng tâm của pháp tu định chánh niệm tỉnh giác. Sau đây là một vài kiểu đi kinh hành để các bạn tham khảo thêm.
 
► Các kiểu đi kinh hành khác
 
- Đi kinh hành trau dồi lòng từ:
 
Khi đi nhìn dưới đất và tránh không giẫm đạp chúng sinh, tác ý “dưới chân ta bước đi có nhiều côn trùng nhỏ nhít, ta hãy thương yêu chúng nên phải ý tứ từng bước đi, tránh không làm đau khổ và chết chóc chúng sinh”.
 
- Đi kinh hành tác ý đếm số trước mỗi bước đi:
 
Cách thực hành giống đi kinh hành tu tập chánh niệm tỉnh giác, nhưng bây giờ hành giả tác ý đếm số trước từng bước đi, và cứ 20 bước thì đứng lại tác ý một lần “đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành”. Cách đi kinh hành này phải tác ý nhiều và liên tục trước mỗi bước đi, nên cần có sức tỉnh thức, sức nhiếp tâm cao hơn nhiều so với việc đi không đếm bước. Vì vậy khi chưa xả tâm tốt, sức tỉnh chưa cao thì hành giả chưa nên tu tập cách này để tránh ức chế tâm.
 
Cách thực hành như sau:
 
Trước khi đi, hành giả tác ý "đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành". Đếm "một" rồi chân trái bước, đếm "hai" rồi chân phải bước, đếm "ba" rồi chân trái bước, đếm "bốn" rồi chân phải bước... cứ như vậy cho đến 20 bước thì đứng lại, tác ý "đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành", rồi tiếp tục lặp lại đếm và bước 20 bước. Tùy sức tỉnh của mình mà tu tập, ví dụ sức tỉnh là 5 phút, thì tập đúng 5 phút là ngừng, xả nghỉ.
 
- Đi kinh hành phá hôn trầm thùy miên:
 
Tương tự cách đi kinh hành tác ý đếm số trước mỗi bước đi nhưng bây giờ hành giả tác ý mạnh hơn và bước đi mạnh hơn để phá cơn buồn ngủ.
 
Trước khi đi ta vận động cơ thể làm cho người tỉnh táo, nhắc “tâm phải tỉnh thức, thân phải tỉnh táo, không được buồn ngủ nữa” rồi chạy một chỗ, hay chạy đường dài, hay nhảy lên nhảy xuống. Sau đó bắt đầu đi kinh hành, trước khi đi tác ý mạnh “thân tâm phải tỉnh thức trong bước đi rõ ràng”. Rồi tác ý mạnh và liên tục “chân trái bước”, “chân phải bước”, cứ ra lệnh xong thì bước chân trái, chân phải tương ứng. Khi đi dậm chân mạnh, hoặc nhấc chân thật cao cho đầu gối ngang bụng rồi mới hạ xuống. Thực hiện như vậy trong khoảng thời gian 1 phút hay vài phút, khi thấy tỉnh rồi thì chuyển sang đi kinh hành thư giãn, đi như người vô sự, không cần chú ý vào bước chân nữa. Khéo léo đi kinh hành như vậy sẽ hết buồn ngủ, vượt qua giờ đòi ngủ thì sẽ rất tỉnh táo.
 
- Đi kinh hành kết hợp định niệm hơi thở:
 
Cách thực hành giống hệt đi kinh hành tác ý đếm số trước mỗi bước đi, chỉ thêm vào là khi đứng lại sau 20 bước đi, hành giả tác ý "hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra", tác ý xong liền hít vô, thở ra 5 hơi thở bình thường. Khi hít thở 5 hơi thở xong liền tác ý "đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành" rồi đi tiếp.
 
Tập theo cách trên quen rồi, hành giả có thể tập theo cách nâng cao hơn một chút, đó là vẫn tập y như trên, nhưng khi đứng lại hít thở 5 hơi thở, ta không đứng nữa mà ngồi xuống, ngồi bán già hoặc kiết già lưng thẳng để hít thở.
 
Hành giả phải tu tập định niệm hơi thở thuần thục rồi mới áp dụng cách đi kinh hành này.
 
- Đi kinh hành thân hành niệm:
 
Đây là cách đi kinh hành để tập thân hành niệm, có công năng tỉnh thức rất cao, áp dụng cho giai đoạn 2, đòi hỏi tâm phải ly dục, ly ác pháp tròn đủ rồi mới được thực hành. Khi nào bước sang giai đoạn 2, hành giả xem video Trưởng Lão hướng dẫn để tu tập. Cách thực hành giống đi kinh hành kết hợp ngồi xuống thở 5 hơi, nhưng truyền lệnh tác ý từng chi tiết nhỏ hơn rất nhiều. Ví dụ, ở trên ta chỉ tác ý “một” rồi chân trái bước một bước; còn bây giờ ta tác ý “chân trái bước”, rồi tác ý “dở gót lên” ta mới dở gót chân trái lên, tác ý “dở chân lên” ta mới nhấc cả chân trái lên khỏi mặt đất, tác ý “đưa chân tới” ta mới đưa chân trái về phía trước, tác ý “hạ chân xuống” ta mới đặt mũi bàn chân trái xuống đất, tác ý “hạ gót xuống” ta mới đặt gót chân trái xuống. Cách truyền lệnh tác ý rất chi tiết và từng bước đi sẽ rất chậm so với các cách đi kinh hành trên. Khi nào xả tâm sạch, sang giai đoạn 2 chúng ta mới quan tâm thực hiện.
 
Đến đây, chúng ta đã tìm hiểu xong pháp môn định chánh niệm tỉnh giác. Trước khi khép lại phần trọng tâm của giai đoạn 1, chúng ta tìm hiểu thêm phương pháp đuổi bệnh mà Trưởng Lão thường hướng dẫn cho mọi người. Phương pháp này có lợi ích rất lớn và không khó tu tập. Các bạn nên tìm hiểu và thực hành tu tập.
 

••• Phương pháp đuổi bệnh •••

 
Phương pháp đuổi bệnh Trưởng Lão dạy là phương pháp dựa vào ý thức lực của pháp như lý tác ý và sức nhiếp tâm, an trú tâm để đẩy lui bệnh tật. Với yêu cầu hành giả phải sống đúng giới luật. Nếu hành giả đã tu tập thuần thục định niệm hơi thở thì nhiếp tâm vào hơi thở. Nếu hành giả chưa tu được hơi thở thì nhiếp tâm vào cánh tay.
 
Phương pháp đuổi bệnh này được Thầy Thông Lạc giảng rất nhiều lần cho các đoàn Phật tử ở nhiều địa phương, cho thấy đây là phương pháp mọi người đều có thể thực hiện để giúp mình và người thân hết bệnh khổ. Đặc biệt là nó hoàn toàn miễn phí, không cần dùng thuốc, lại có thể đẩy lui được mọi loại bệnh, kể cả bệnh nặng như ung thư hay liệt nửa người.
 
Trước khi tu tập, hành giả phải xác định rõ rằng, mình bị bệnh đau là do nhân không lành đã từng tạo ra nên bây giờ quả bệnh đau mới đến. Vì vậy mình không sợ hãi, mà vui vẻ chấp nhận những gì đã gây ra và từ đây về sau nguyện sống trong thiện pháp để không phải đón nhận quả khổ nữa. Với một tinh thần như vậy, hành giả ôm chặt pháp tu tập, kiên trì ôm pháp tu đến khi nào hết bệnh mới thôi.
 
Cách thực hành:
 
Hành giả nằm hay ngồi trong tư thế nào cũng được, nhưng nếu gan dạ thì nên ngồi kiết già hay bán già lưng thẳng, mở mắt nhìn phía trước cách chỗ ngồi một thước. Khi thân ngồi ngay thẳng, tâm yên ổn mới tác ý như sau:
 
"Tất cả bệnh tật đều vô thường, vậy thân bệnh này phải phục hồi không còn bệnh tật nào cả. Tất cả bệnh tật phải theo cánh tay đi ra!". Hành giả có thể thay cụm từ “tất cả bệnh tật” bằng tên bệnh cụ thể của mình, ví dụ đang bị đau chân phải thì tác ý “cái đau ở chân phải phải theo cánh tay đi ra”.
 
Tác ý câu trên rồi, hành giả tác ý tiếp "an tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay ra", hành giả đưa tay phải ra, rồi tác ý tiếp “an tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay vô”, hành giả đưa tay phải vô. Cứ tác ý như vậy và đưa tay ra, vô, tay phải đưa xong thì đổi qua tay trái, tuần tự đổi cho nhau. Trong quá trình đưa tay ra, vô, hành giả tập trung cái ý vào cánh tay, tức là nhiếp tâm vào cánh tay, theo dõi cánh tay đưa ra, đưa vô. Tu tập như vậy 5 phút rồi nghỉ. Nghỉ chừng 5 phút lại tập tiếp. Sau thời gian tập thuần thục, hành giả tăng thời gian mỗi lần tập lên 10 phút. Tăng dần lên tối đa 30 phút cho một lần tập.
 
Khi đuổi bệnh phải siêng năng tác ý thì chỉ trong thời gian ngắn bệnh tật sẽ chấm dứt và thân không còn một bệnh tật nào cả.
 
Người bị bệnh bán thân có thể dùng ngón tay co, duỗi thay cho hành động đưa cánh tay.
 
Nếu sức người bệnh chưa đủ để đẩy lui bệnh thì có thể nhờ mọi người xung quanh hỗ trợ đẩy giúp. Ví dụ mẹ mình đau bệnh, mình hướng dẫn mẹ nên đưa cánh tay như thế này để đuổi bệnh. Rồi các con ngồi xúm xít xung quanh giường, bà đang đuổi bệnh, thì các con cũng dùng cánh tay đuổi bệnh cho mẹ, tác ý “bệnh của mẹ tôi phải theo cánh tay đi ra”, rồi đưa tay ra, vô. Bệnh gì nói rõ tên bệnh đó ra. Nhờ có nhiều người cùng đẩy bệnh mà bệnh bị đẩy lui rất nhanh. Đó là vì mọi người trong gia đình có chùm nhân quả với nhau. Tất nhiên những người hỗ trợ phải giữ gìn 5 giới trọn vẹn, không ăn thịt chúng sinh mà phải ăn chay hết trong những ngày đuổi bệnh.
 
Để tìm hiểu rõ ràng về phương pháp đuổi bệnh, mời các bạn qua Phần 2 nghe các bài giảng của Trưởng Lão.
 
***********************************
 
Đến đây, chúng ta đã tìm hiểu xong phần trọng tâm tu tập. Các bạn đã nắm được 3 pháp hành là định vô lậu, định chánh niệm tỉnh giác, như lý tác ý, cùng với 3 thiện pháp cần thực hiện là 4 vô lượng tâm, 5 giới, 10 điều lành. Các pháp này là trọng tâm để ly dục ly ác pháp của giai đoạn 1.
 
Việc áp dụng tu tập các pháp trên vào đời sống thường ngày khá đơn giản. Hằng ngày các bạn chỉ cần dành chút thời gian để triển khai tư duy quán xét về nhân quả. Khi có tri kiến nhân quả thì thường như ý tác ý nhắc tâm luôn thương yêu tha thứ (từ, bi, hỷ, xả) để sống trong thiện pháp (5 giới, 10 điều lành). Và dành thêm chút thời gian để tập đi kinh hành, hay tập tỉnh thức ngay trong các hành động hằng ngày. Nhỡ khi có ác pháp xảy đến làm mình buồn tủi, giận hờn, thì ngay đó tác ý “đây là nhân quả”, rồi triển khai quán xét thêm về nhân quả thì tâm sẽ được thanh thản, an lạc ngay liền.
 
Như vậy, mỗi ngày chúng ta chỉ phải bỏ ra chút thời gian để tu định vô lậu và tập đi kinh hành, các pháp còn lại được thực hiện ngay trong những hoạt động thường ngày. Nếu ai chưa hiểu rõ pháp Phật thì mỗi ngày dành thời gian đọc, nghe Trưởng Lão giảng để có thêm sự hiểu biết. Thường nghe chánh pháp có một lợi ích lớn là như có Thầy kế bên nhắc ta không quên sống trong thiện pháp.
 
Sự tu tập theo chánh pháp chỉ đơn giản như vậy nhưng mang lại lợi ích thiết thực to lớn. Triển khai được tri kiến nào là ta thấy an lạc, giải thoát ngay ở tri kiến đó. Thực hành sống đúng được thiện pháp nào là ta thấy yên vui, an ổn ngay trong thiện pháp đó. Kiên trì tìm hiểu, kiên trì thực hành pháp Phật hằng ngày, các bạn sẽ đón nhận được kết quả an vui giải thoát ngay liền, đúng như Phật dạy: “Pháp ta không có thời gian, đến để mà thấy”.
 
Bên cạnh phần trọng tâm, phần tiếp sau đây là những pháp hỗ trợ, chuẩn bị cho hành giả bước vào giai đoạn 2, đòi hỏi phải có sự xả tâm, nhiếp tâm, an trú tâm thật tốt rồi mới có thể thực hiện. Vì vậy, các bạn nên thực hiện thuần thục các pháp trọng tâm rồi hãy bước qua tìm hiểu phần tiếp theo.
 
***********************************
 

5) Định sáng suốt

 
Định sáng suốt chủ yếu tu tập ở giai đoạn 2, khi hành giả đã xả được tâm và sống độc cư. Còn ở giai đoạn 1 tập trung vào mục đích xả tâm, ly dục ly ác pháp, hành giả dùng định sáng suốt để thư giãn, xả nghỉ sau khi tu các pháp khác.
 
Sau khi dụng công tu tập một pháp nào đó, ví dụ sau khi triển khai tư duy, quán xét, hoặc sau khi đi kinh hành, có thể hành giả tu tập chưa quen nên thân tâm mỏi mệt, sinh ra lười biếng, trí óc không còn sáng suốt. Lúc đó nên tu định sáng suốt để thư giãn các cơ và thần kinh trong thân, khiến cho các cơ và thần kinh buông xuống, không còn một chút xíu dụng công và ức chế nào. Thư giãn đúng cách giúp thân tâm nhẹ nhàng, thoải mái, tu tập không bị ức chế, càng tu sẽ càng thấy thích, ham tu, thấy rõ sự an lạc, giải thoát.
 
Cách tu định sáng suốt:
 
Khi cảm thấy cơ thể mệt nhọc, đầu óc căng thẳng thì hành giả nên ngồi nghỉ, 2 chẫn duỗi thẳng dài ra, 2 tay buông thõng, thả nhẹ xuống, các cơ trong thân không được gồng, tinh thần không được suy nghĩ và tập trung nơi nào cả, chỉ để nó tự nhiên theo tự nhiên của nó. Khi cảm giác thân tâm buông thõng, chúng ta mới hướng tâm “toàn thân an tịnh tôi biết tôi đang thư giãn”, hoặc “toàn tâm an tịnh tôi biết tôi đang thư giãn”. Xong chúng ta để thân tâm tự nhiên thư giãn và an tịnh. Kế tiếp hành giả lại hướng tâm “các cơ trong thân thư giãn, buông xuống không được gồng, phải nhẹ nhàng, thanh thản, an lạc và vô sự, đầu óc phải thư giãn, không được tập trung chỗ nào hết, phải tự nhiên, hồn nhiên với vạn pháp”.
 
Nhờ tu tập định sáng suốt giúp cho hành giả tỉnh giác, mau chóng ở trong chánh niệm, nhờ đó mới ly tham, đoạn ác pháp.
 

6) Định niệm hơi thở

 
Định niệm hơi thở dùng để nhiếp tâm, an trú tâm, định tỉnh trong hơi thở để đẩy lui các ác pháp tác động vào thân tâm ta (như giận hờn, đau nhức, bệnh tật). Đồng thời chuẩn bị cho quá trình thực hiện nhập, xả thiền định sau này.
 
Vì đây là pháp nhiếp tâm, an trú tâm và tác động vào thân hành nội (hơi thở) nên rất khó, đòi hỏi hành giả phải xả sạch tâm rồi mới được tu tập. Nếu chưa xả sạch tâm, thực hành không đúng cách sẽ dẫn đến căng mặt, nhức đầu, khó thở, rối loạn hô hấp…
 
Tâm xả chưa được sạch thì không nên tu định niệm hơi thở, mà phải tu định vô lậu, quán triệt cho thông suốt lý chân thật của các pháp. Và phải tập định chánh niệm tỉnh giác cho thuần thục rồi mới tập hơi thở. Định chánh niệm tỉnh giác là tập tỉnh thức bằng hành động bên ngoài (thân hành ngoại). Còn hơi thở là hành động bên trong (thân hành nội). Hành động bên ngoài có tỉnh thức, thuần thục rồi mới tập đến hành động bên trong.
 
Khi tâm xả sạch bằng định vô lậu và có sức tỉnh thức cao, hành giả bắt đầu tu tập định niệm hơi thở theo 3 bước. Đầu tiên hành giả cần nhận biết được hơi thở tự nhiên của mình, sau đó tập hơi thở tụ điểm, cuối cùng tập các đề mục định niệm hơi thở.
 

Nhận biết hơi thở tự nhiên

 
Đầu tiên cần nhận biết cho được hơi thở tự nhiên, hay hơi thở bình thường. Dù 1 năm, 2 năm cũng phải tập cho được. Nhận biết được thuần thục, rõ ràng rồi hành giả mới tập hơi thở tụ điểm và các đề mục định niệm hơi thở. Bởi ở trạng thái hơi thở tự nhiên bình thường, hành giả sẽ không bị tẩu hỏa nhập ma, không bị các chướng ngại làm rối loạn cơ thể trong quá trình tu tập.
 

Hơi thở tụ điểm

 
Tụ điểm là một điểm tưởng tượng, ta đặt điểm đó tại nhân trung. Khi tu tập hơi thở, ý thức đặt im tại tụ điểm nhân trung để biết hơi thở đi qua đó. Chỉ trừ đề mục thứ tư “cảm giác toàn thân” là ý rời tụ điểm để cảm nhận sự rung động của toàn thân một cách tự nhiên.
 
Gọi là tụ điểm vì đây là điểm cột chặt 6 thức. Bình thường 6 thức là mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý giống như 6 con vật thường chạy lăng xăng theo nhiều hướng khác nhau. Tụ điểm ví như cái cọc cột chặt 6 thức ở yên một chỗ, không để chúng phóng giật. Mắt không còn chạy theo sắc, tai không còn chạy theo âm thanh…
 
Có nhiều người từng tu tập theo cách theo dõi hơi thở đi vào lỗ mũi, vào đến phổi, xuống bụng, rồi theo dõi hơi thở đi ra. Đó là cách tu tập của ngoại đạo.
 
Tu tập hơi thở tụ điểm là ta tạo một tụ điểm tại nhân trung rồi quan sát hơi thở đi qua tụ điểm. Từ tụ điểm đó hơi thở vào. Từ tụ điểm đó hơi thở ra. Sáu thức nằm yên tại tụ điểm và biết hơi thở đi qua, chứ sáu thức không chạy theo hơi thở đi vào, đi ra. Khi tập quen rồi, sáu thức sẽ nằm yên tại tụ điểm, ngoại cảnh không còn tác động vào ta được nữa, các cảm thọ của thân cũng không còn gây chướng ngại cho ta được nữa.
 
(Nhân trung là rãnh lõm ngay dưới mũi, nối giữa mũi và môi trên).
 
- Cách ngồi khi tu tập định niệm hơi thở:
 
Tu tập định niệm hơi thở thì phải ngồi kiết già, nếu chưa quen thì tạm thời ngồi bán già, nhưng phải tập ngồi kiết già cho được. Giữ lưng ngay thẳng, không khòm, không nghiêng tới trước hay ngả sang bên, cũng không rướn người quá cao, chỉ giữ ở mức thoải mái mà thẳng lưng. Lúc này, hành giả phải kiểm soát lưng cho thẳng sau mỗi vài phút. Đầu ngẩng lên thẳng với lưng, không cúi tới trước, không nghiêng sang bên. Hành giả cũng phải kiểm soát giữ đầu thẳng sau mỗi vài phút. Mắt nhìn xuống phía chóp mũi, ý tập trung ở điểm giữa nhân trung, để cảm nhận hơi thở đi vào và đi ra ngang qua điểm này.
 
Hai tay úp trên đầu gối, hay buông thõng trước hai ống chân, hoặc để ngửa chồng lên nhau tựa sát bụng, đặt trên hai gót chân. Để tay đâu cũng được, miễn sao cho thoải mái.
 
Sau khi ngồi đúng tư thế xong, không nhúc nhích động đậy, nhưng không gồng cứng cơ bắp nào, giữ yên tĩnh toàn thân ít nhất vài phút, thoải mái cảm nhận toàn thân và cảm nhận hơi thở vô ra tự nhiên, lưu ý và giữ sự tự nhiên này của hơi thở.
 
Chuẩn bị như thế xong, hành giả mới bắt đầu tu tập hơi thở tụ điểm, sau đó là các đề mục của định niệm hơi thở. Nhớ chọn nơi chốn yên tĩnh, vắng vẻ để tu tập.
 
- Thực hành tu tập hơi thở tụ điểm:
 
Hơi thở tụ điểm chính là đề mục đầu tiên và cũng là đề mục nền tảng của định niệm hơi thở. Hành giả dùng hơi thở tự nhiên để tu tập hơi thở tụ điểm. Cách thực hành như sau:
 
Ngồi kiết già, sau khi toàn thân yên lặng, tác ý “ý thức đặt tại nhân trung, phải tập trung biết hơi thở vô, biết hơi thở ra”, hai mắt nhìn xuống phía chóp mũi, tác ý “hít vô, tôi biết tôi hít vô; thở ra, tôi biết tôi thở ra”, tác ý xong thì hít vào thở ra một cách tự nhiên, ý tập trung ở điểm giữa nhân trung để cảm nhận hơi thở đi vào và đi ra ngang qua điểm này. Đủ 5 hơi thở tác ý “dừng”.
 
Hành giả có thể chọn cách đếm số trước mỗi hơi thở. Cách thực hành giống như trên, nhưng trước mỗi hơi thở hành giả đếm số rồi mới hít vào thở ra. Ví dụ, đếm “một” rồi hít vào thở ra, thở ra xong đếm “hai” rồi hít vào thở ra, cứ vậy cho hết 5 hơi thở.
 
Mới tu tập nên hành giả chỉ tập 5 hơi thở cho quen và có chất lượng nhiếp tâm, an trú tâm. Nếu không có một niệm nào xen vào trong hơi thở, tâm chỉ biết duy nhất có hơi thở vào ra một cách nhẹ nhàng, thoải mái, dễ chịu, thì đấy là hành giả tu đúng pháp. Còn ngược lại, thấy căng mặt, nhức đầu, tức ngực, khó thở, rối loạn hô hấp… thì đấy là tu sai pháp, có sự ức chế tâm, cần dừng lại không tu hơi thở nữa, mà nên quay lại tu tập xả tâm bằng tri kiến và thiện pháp.
 
Nếu tu đúng pháp, hành giả không vội tăng thời gian lên mà vẫn tập 5 hơi thở cho nhuần nhuyễn, thuần thục. Khi nào thật sự nhuần nhuyễn rồi thì tăng lên 10 hơi thở mỗi lần tập. Cứ như vậy, tăng đến tối đa mỗi lần tập là 30 phút. Nếu 1 ngày tu tập hai lần trở lên thì giữa các lần tập phải có thời gian xả nghỉ một lúc, khi xả nghỉ có thể đi chơi, đi kinh hành thư giãn hay làm việc khác.
 
Hơi thở là thân hành nội nên phải hết sức cẩn thận, hành giả không nên tu nhiều để tránh bị ức chế. Thầy Thông Lạc còn khuyên nếu không có người hướng dẫn thì hành giả không nên tự ý tu tập. Vì vậy, nếu muốn tu tập, trước hết hành giả phải xả tâm cho sạch và nghe thật kỹ các bài giảng của Trưởng Lão về tu tập hơi thở, sau đó phải nhận biết cho được hơi thở tự nhiên, dù nhiều tháng hay vài năm cũng phải nhận biết cho được. Nhận biết rõ ràng rồi mới tập hơi thở tụ điểm, không nên tập nhiều, mà chỉ nên tập 5 hơi thở, khi quen, thuần thục 5 hơi thở rồi thì tập 10 hơi thở. Dừng ở mốc 5 và 10 hơi thở này để tu tập trong nhiều năm, không cần tăng lên nhiều hơn.
 

► Các đề mục định niệm hơi thở

 
Nền tảng hơi thở là đề mục đầu tiên “hít vô, tôi biết tôi hít vô; thở ra, tôi biết tôi thở ra”, chính là hơi thở tụ điểm đã tìm hiểu ở phần trên. Hành giả chỉ cần tập trung thực hiện tốt đề mục này. Khi thực hiện thuần thục được đề mục đầu rồi thì tất cả các đề mục sau hành giả tu tập dễ dàng, không mất thời gian.
 
Trong các đề mục còn lại có 3 đề mục an trú tâm tạo nội lực mạnh để diệt trừ ác pháp cảm thọ, đẩy lui bệnh khổ, đó là:
 
- Đề mục thứ năm "an tịnh thân hành, tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành, tôi biết tôi thở ra", giúp thân an ổn, đẩy lui các chướng ngại trên thân, diệt trừ bệnh khổ.
 
- Đề mục thứ bảy "an tịnh tâm hành, tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành, tôi biết tôi thở ra", giúp tâm an ổn, đẩy lui các cảm thọ trong tâm.
 
- Đề mục thứ chín "quán thọ vô thường, tôi biết tôi hít vô; quán thọ vô thường, tôi biết tôi thở ra", giúp tâm không dao động, không sợ hãi khi thân có bệnh tật khổ đau, đẩy lui bệnh tật.
 
Cách thực hành 3 đề mục này giống đề mục đầu tiên (hơi thở tụ điểm), chỉ thay câu tác ý “hít vô, tôi biết tôi hít vô; thở ra, tôi biết tôi thở ra” lần lượt bằng 3 câu tác ý trên.
 
Các đề mục còn lại các bạn có thể tham khảo trong sách và băng giảng của Trưởng Lão.
 

7) Ba giới hạnh ăn, ngủ, độc cư

 
Ăn, ngủ, độc cư là ba giới hạnh người tu tập tại gia cần tập làm quen và thực hành cho được để chuẩn bị cho ngày thọ bát quan trai. Thực hành ba giới hạnh này sẽ mang đến sự giải thoát càng rõ nét hơn cho thân tâm hành giả.
 

1- Ăn ngày một bữa.

Ăn là một pháp quan trọng, vì từ ăn mà sinh ra các dục khác. Ăn uống không đúng bữa, hay ăn quá nhiều, không điều độ thì cơ thể dễ sinh bệnh tật.
 
Hành giả tập giảm ăn từng bữa, từng chút. Không được vội vàng. Mọi pháp tu tập đều cần từ từ để thân, tâm thích nghi được. Vội vàng là ức chế, sớm muộn cũng hỏng chuyện.
 
Dùng định vô lậu quán đồ ăn bất tịnh, ăn để sống, sống để tu tập thiện pháp, chứ không phải sống để chạy theo ham ăn. Thường dùng pháp hướng tâm tác ý giảm ăn và tập giảm dần từng bữa ăn cho đến khi còn ăn ngày 1 bữa. Ví dụ hành giả đang ăn ngày 4 bữa, bây giờ giảm xuống còn ăn ngày 3 bữa, bữa thứ 4 chỉ ăn phụ, có thể dùng các đồ ăn nhẹ như trái cây, bánh, hay uống sữa hạt… Khi cơ thể thích nghi được rồi, thấy an ổn, không đói, không đòi ăn, thì bỏ bữa ăn phụ, còn ăn ngày 3 bữa. Cứ vậy, giảm dần đến khi còn ăn ngày 1 bữa.
 
 
2- Ngủ đúng giờ.

Ngủ vừa đủ, đúng giờ giấc. Không ngủ nhiều sinh lười biếng, mê muội.
 
Hành giả không cần tập giảm giờ ngủ. Khi giảm ăn, xả được tâm và có sức tỉnh thức cao thì thời gian ngủ sẽ tự động giảm một cách tự nhiên.
 
Tập tỉnh giác trong giấc ngủ dần cho quen, bằng cách tác ý trước khi ngủ “đến giờ ngủ hãy ngủ đi, thân ngủ nhưng tâm phải tỉnh táo sáng suốt”.
 
 3- 
Độc cư, sống trầm lặng, ít nói. 

Sống một mình là sống cho mình, sống đời sống nội tâm, phải phòng hộ 6 căn là mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý, nhờ đó tâm không bị phóng dật.
 
Mỗi ngày hành giả tập sống độc cư bằng cách dành 30 phút tập sống thẩn thơ một mình, không làm việc gì, chỉ quan sát thân, thọ, tâm và pháp để đẩy lui các chướng ngại pháp trong tâm. Để dễ dàng hơn, khởi đầu hành giả chỉ cần tập với thời gian ngắn, ví dụ 10 phút, tập cho quen rồi tăng dần lên 30 phút.
 
Khi thực hành được 30 phút mỗi ngày thấy ở một mình an ổn, hành giả tăng lên hai lần tập trong một ngày. Cứ vậy tăng lên tối đa bốn lần một ngày, mỗi buổi sáng, chiều, tối, khuya thực hiện một lần.
 

8) Thọ bát quan trai

 
Mỗi tháng hành giả nên chọn một hoặc hai ngày thọ bát quan trai, tức là tập sống như Đức Phật, sống độc cư trầm lặng một mình, ăn ngày một bữa, không ca hát và nghe ca hát, không nằm giường cao rộng lớn, không trang điểm, giữ gìn 5 giới trọn vẹn, trong đó giới không tà dâm đổi thành không dâm dục. Và hành trì 4 pháp là định chánh niệm tỉnh giác, định vô lậu, định niệm hơi thở, định sáng suốt.
 
Sở dĩ có bát quan trai giới vì người cư sĩ tu tại gia còn quá nhiều gia duyên ràng buộc, khó giữ gìn hết giới luật, nên Đức Phật chế ra 8 giới để cư sĩ thọ trì trong một ngày một đêm, giúp gieo duyên tu hành giải thoát và đời đời kiếp kiếp sinh ra làm người liền gặp được chánh pháp. 8 giới này là thiện pháp nên nó có công năng chuyển nghiệp đau khổ, giúp hành giả và gia đình đều được an vui, ít bệnh tật, ít tai nạn xảy ra, gia đình đầm ấm...
 
Vì vậy, vào ngày thọ bát quan trai, hành giả hãy xả bỏ hết duyên thế gian, không lo nghĩ, bận tâm đến bất kỳ người nào, công ăn việc làm, của cải tài sản, nhà cửa... xả bỏ xuống hết. Xả bỏ xuống hết để một ngày một đêm làm thánh hiền vô sự, một ngày đêm tâm hồn thanh thản, an lạc, một ngày đêm được rèn luyện đạo lực bằng thiền định xả tâm.
 
Thọ bát quan trai là pháp môn mang lại nhiều lợi ích lớn cho người cư sĩ tại gia, hành giả hãy nghiên cứu thật kỹ trước khi bắt đầu tu tập. Phần 2 sẽ có những bài giảng của Trưởng Lão giảng giải chi tiết, rõ ràng về pháp môn này.
 

9) Mười giới sa di

 
Mười giới sa di là mười đức hạnh Thánh. Hành giả nào sống trọn vẹn được với mười đức hạnh Thánh này được gọi là bậc ly dục ly ác pháp, là bậc nhập vào dòng Thánh, khi tiến qua giai đoạn 2 tu tập các pháp Chánh Niệm, Chánh Định sẽ chứng quả A la hán dễ dàng. Vì vậy, những hành giả đã thực hiện được 5 giới, 10 điều lành, tu tập thuần thục các pháp hành trọng tâm, nếu muốn tiến qua giai đoạn 2 thì nên tập sống với 10 giới đức Thánh.
 
Mười giới sa di về căn bản chính là các giới của bát quan trai giới, chỉ thêm một giới là không cất giữ tiền bạc. Cụ thể:
 

1- Giới thứ nhất: Không sát sinh là Thánh đức hiếu sinh.

2- Giới thứ hai: Không trộm cắp là Thánh đức buông xả.

3- Giới thứ ba: Không dâm dục là Thánh đức thanh tịnh.

4- Giới thứ bốn: Không nói dối là Thánh đức chân thật.

5- Giới thứ năm: Không uống rượu là Thánh đức minh mẫn.

6- Giới thứ sáu: Không trang điểm là Thánh đức tự nhiên.

7- Giới thứ bảy: Không ca hát và nghe ca hát là Thánh đức trầm lặng độc cư.

8- Giới thứ tám: Không nằm giường cao rộng lớn là Thánh đức thanh bần.

9- Giới thứ chín: Không ăn uống phi thời là Thánh đức ly dục.

10- Giới thứ mười: Không cất giữ tiền bạc là Thánh đức ly tham.

Để tìm hiểu rõ ràng về 10 giới đức sa di, mời các bạn chuyển qua Phần 2 đọc cuốn Văn hóa Phật giáo truyền thống – tập 1 của Trưởng Lão Thích Thông Lạc, và nghe các bài giảng của Ngài về 10 giới đức Thánh này.
 
Đến đây, chúng ta đã tìm hiểu xong và kết thúc lộ trình tu tập giai đoạn 1.
 

Những lưu ý khi tu tập

 

Phải khéo léo, thiện xảo

 
Trong quá trình tu tập sẽ có các chướng ngại xuất hiện, hành giả cần vận dụng trí tuệ, khéo léo tự tìm cách vượt qua. Phải biết tự điều chỉnh để đạt được mục đích của pháp đang tu.
 
Ví dụ khi tìm hiểu cách trau dồi tâm từ, bi, hỷ, xả thấy có nhiều câu tác ý quá không biết tu thế nào. Thì mình khéo léo, xem bản thân cần trau dồi tâm nào, xem câu tác ý nào phù hợp với mình thì chọn câu đó để trau dồi.
 
Ví dụ đi kinh hành vòng to thấy khó an trú tâm vào bước chân, đi vòng nhỏ thấy dễ an trú hơn, thì mình đi vòng nhỏ.
 
Ví dụ khi thực hành pháp hướng tâm như lý tác ý, mình khéo léo lúc thì nhắc tâm nhẹ nhàng, lúc thì tác ý mạnh mẽ để huấn luyện tâm. Hay khi câu tác ý dài quá, mình tự điều chỉnh cho ngắn lại để dễ nhớ và dễ tác ý.
 
Ví dụ tu tập định vô lậu ngồi mãi một chỗ, ta chuyển qua đi kinh hành thư giãn cho thoải mái. Đi kinh hành xong ta chuyển qua tập tỉnh thức trong từng hành động. Sau đó ta ngồi chơi tự nhiên, quan sát niệm khởi nổi lên, niệm ác thì ngăn diệt, niệm thiện thì tăng trưởng. Đó là khéo kết hợp các pháp tu để thân tâm không bị gò bó và tâm được nhu nhuyễn, dễ sử dụng.
 
Ví dụ khi tu tập thấy mệt mỏi, khó chịu, ức chế thì khéo léo dừng tu, nghỉ ngơi thư giãn. Tự kiểm nghiệm lại xem mình tu quá sức hay tu sai pháp. Sau khi biết nguyên nhân thì điều chỉnh lại cho phù hợp.
 

► Tu đúng căn cơ, đặc tướng

 
Nếu không tu tập đúng căn cơ đặc tướng của mình thì cũng giống như người nhạc sĩ lên dây đàn, căng quá thì đứt dây, chùng quá thì không thành tiếng.
 
Do đó, khi tu hành chúng ta phải biết căn cơ của mình. Vậy muốn biết căn cơ của mình thì phải biết như thế nào?
 
Căn cơ của chúng ta thể hiện qua nhân tướng và hành tướng. Vì thế, khi tu tập chúng ta nên tu tập theo nhân tướng và hành tướng tự nhiên của mình.
 
Ví dụ: Hành tướng ngoại tự nhiên của mình đi chậm, khi tu tập thì phải theo hành tướng đi chậm mà tu, không được đi nhanh, cũng không đi quá chậm. Khi hành tướng tự nhiên của mình đi nhanh thì tu tập không được đi chậm quá hoặc quá nhanh, phải đi với tướng tự nhiên của mình.
 
Hành tướng nội tự nhiên của mình khi hơi thở chậm thì nên tu tập theo hơi thở chậm, hơi thở nhanh thì nên tu tập theo hơi thở nhanh, không nên hơi thở chậm mà khi tu tập thì lại thở nhanh, cũng như hơi thở nhanh mà khi tu tập thì lại thở chậm, tu như vậy không tự nhiên. Không tự nhiên thì có sự ức chế, mà có sự ức chế thì có chướng ngại pháp, có chướng ngại pháp thì không có sự giải thoát ngay liền, không có sự giải thoát ngay liền là tu sai pháp Phật, tu sai pháp Phật là tu theo pháp môn của ngoại đạo.
 
Nhân tướng là hình tướng cơ thể, có người cao, có người thấp, người đẹp, người xấu, người trắng, người đen, người mập, người ốm, người mặt dài, người mặt ngắn, mặt vuông, mặt bầu, mặt tròn...
 
Khi tu tập chúng ta khéo sử dụng cơ thể, khi thì dụ dỗ, khi thì ra lệnh, chứ không bắt ép nó tu tập nhiều thì cũng không tốt, mà tu tập ít thì cũng không có lợi, không được khổ hạnh ép xác, mà cũng không được lợi dưỡng phá giới luật. Ngày ngày tu tập phải tùy theo đặc tướng của mình mà thực hiện cho đúng pháp thì có kết quả lợi ích rất lớn.
 
Đặc tướng là tướng riêng biệt của thân, thọ, tâm, pháp của mọi người. Đặc tướng còn gọi là khả năng riêng biệt của mỗi người, không phải trời phú cho, mà họ khéo huân tập trong nhiều kiếp.
 
Ví dụ, một người nghe Đức Phật thuyết pháp xong thì chứng quả Tu Đà Hoàn, có đầy đủ pháp nhãn, nhưng lại có người cũng nghe thuyết pháp xong mà tật này vẫn còn tật nấy, không bỏ được.
 
Đặc tướng tốt hay xấu đều do nhân quả huân tập nhiều đời nhiều kiếp mà thành, chứ không phải huân tập trong một sớm một chiều mà có được. Cho nên, người có tài ba lỗi lạc là do sự huân tập nhiều đời nhiều kiếp, cũng như người tu nhanh chậm. Nếu chúng ta nói rằng mình tu chậm thì bỏ cuộc tu, tức là không huân tu nữa thì như vậy đặc tướng của chúng ta sẽ xấu và cuộc đời sẽ trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi chịu khổ đau mãi mãi. Người ta tu nhanh là nhờ người ta tu nhiều kiếp rồi, còn mình tu chậm là do mình mới tu trong kiếp này mà thôi. Chính đó là đặc tướng của mỗi người. Vì thế càng tu chậm lại càng tu tập nhiều hơn, càng tu chậm lại càng tu tập kỹ hơn.
 

Không nản lòng

 
Chỉ có Thánh nhân mới không mắc lỗi. Còn là con người thì ai cũng có lỗi. Nhưng quan trọng phải biết xấu hổ khi mắc lỗi và sẵn sàng sửa sai. Phải có tinh thần mạnh mẽ không đầu hàng, kiên trì chiến đấu với nghiệp lực tham sân si tích tụ nhiều đời nhiều kiếp. Người thường biết sửa lỗi sẽ trở thành Thánh nhân.
 
***********************************
 

PHẦN 2

KHO TÀI LIỆU CHÁNH PHÁP

 
Sau khi tìm hiểu xong Phần 1, thấy được lộ trình tu tập rõ ràng, các bạn đã có thể tự mình tìm hiểu chánh pháp một cách không có khó khăn. Đi theo lộ trình đó, các bạn tìm đọc, nghe, nghiên cứu thật kỹ những bài giảng của Trưởng Lão. Ngài đã giảng giải rất tường tận, chi tiết từng chủ đề, từng khía cạnh nhỏ. Ai chịu khó đọc, nghe sẽ được tăng trưởng hiểu biết và thông hiểu chánh pháp, biết cách tu tập không thể nào sai.
 
Để hỗ trợ các bạn trong việc tìm hiểu, chúng tôi tổng hợp những bài giảng của Trưởng Lão và sắp xếp theo lộ trình tu tập, pháp tu rõ ràng. Tất cả nội dung được chúng tôi chia sẻ tại trang web Tu Hành Đúng Chánh Phật Pháp:
 
tuhanhdungchanhphatphap.net
 
cùng với kênh Youtube Tu Hành Đúng Chánh Phật Pháp:
 
https://www.youtube.com/channel/UCL22_HGLbfDyAgVzJJT4LwA
 
và được chia sẻ thêm tại nhóm facebook Chánh Phật Pháp:
 
https://www.facebook.com/groups/tuhanhdungchanhphatphap.net/
 

LỜI KẾT

 
Vậy là chúng tôi đã chia sẻ xong với các bạn lộ trình tu tập giai đoạn một. Những chia sẻ này không nhằm dạy các bạn tu tập, bởi chúng tôi chưa tu xong. Trưởng Lão dạy người chưa tu xong không được dạy người khác tu tập. Chúng tôi chỉ chia sẻ lại những lời dạy của Trưởng Lão qua sự hiểu biết của bản thân đúc kết, sắp xếp, tóm gọn lại nhằm giúp các bạn dễ dàng hơn trong việc tìm hiểu chánh pháp. Dựa vào những tóm gọn sơ lược ở Phần 1, các bạn phải tự mình nghiên cứu, triển khai qua những bài giảng của Trưởng Lão ở Phần 2, hay từ các nguồn khác. Rồi sau đó, các bạn phải tự mình áp dụng những hiểu biết có được vào đời sống để ngăn ác, diệt ác.
 
Các bạn có muốn bỏ lỡ duyên gặp chánh pháp không?
 
Hãy tự quyết định cho sự khổ, vui của bản thân mình. Nếu tìm hiểu xong rồi bỏ đấy, không áp dụng vào đời sống để ngăn diệt ác pháp nhằm giải quyết cái khổ ngay nơi bản thân. Hay dùng sự hiểu biết để tranh cãi hơn thua thỏa mãn cho cái ngã mạn, trong khi bản thân còn đầy rẫy tham, sân, si. Thì cuối cùng chỉ phí uổng duyên gặp chánh pháp, khổ đau vẫn cứ mãi khổ đau. Hiểu biết mà không mang lại sự an ổn, giải thoát thì hiểu biết đó chỉ là hiểu biết vô minh, hiểu biết thỏa mãn cho tham dục.
 
Ngược lại, một người tự mình kiên trì tìm hiểu chánh pháp, làm cho sáng tỏ, làm cho thấu suốt, rồi mang sự hiểu biết đó áp dụng vào đời sống để ngăn ác, diệt ác một cách kiên trì không từ bỏ, thì chắc chắn người đó sẽ được an ổn, giải thoát ngay trong hiện tại và mãi mãi về sau.
 
“Người sống một trăm năm
Không thấy pháp sinh diệt
Không bằng sống một ngày
Thấy được pháp sinh diệt”
 
Hy vọng chúng tôi đã giúp các bạn tìm thấy được nhiều điều lợi ích. Chúc các bạn tu tập xả tâm tốt.
 
Kính ghi
Nhóm đệ tử chánh pháp

 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây